Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

Chứng cứ có 1-0-2 về vụ tẩu thoát của Hitler

http://beforeitsnews.com/vietnamese/2013/11/chung-cu-co-1-0-2-ve-vu-tau-thoat-cua-hitler-118166.html


Nhà văn, nhà báo Argentina Abel Basti đã đưa ra những lập luận gây sốc khẳng định Hitler không hề tự sát mà tẩu thoát khỏi Đức và sống đến già. 
Có thể nhà văn, nhà báo người Argentina Abel Basti là người đầu tiên khẳng định thêm giả thiết về sự mất tích của Hitler bằng những tài liệu và ảnh lưu trữ của cơ quan mật vụ. Vào năm 2004, ông đã công bố cuốn sách đầu tiên nhan đề “Những kẻ quốc xã ở Barilotra”. Tuy nhiên, trong phần hai của cuốn sách ăn khách có tựa đề “Hitler ở Argentina”, quan điểm của ông thực sự đã gây chấn động dư luận.

B4INREMOTE-aHR0cDovLzQuYnAuYmxvZ3Nwb3QuY29tLy1YVEZKNmpqUVZVdy9Vb0hKYnRiZ2NLSS9BQUFBQUFBQUtIMC9sWGRZREFackVuZy9zMTYwMC9oaXRsZXIuanBn


Trong khi tiến hành nghiên cứu, Abel Basti đã phỏng vấn nhiều nhân chứng, công bố các tài liệu mật của cơ quan an ninh quốc gia, Basti muốn chứng minh rằng Hitler có thể đã lẩn trốn ở Nam Mỹ và sống tại đó đến già. Sau đây là trả lời phỏng vấn của ông với tuần báo Nga AIF (Luận chứng và sự kiện) về vấn đề này.
- Thưa ông Basti, trong cuốn sách của mình, ông khẳng định là ngày 30/4/1945 Hitler đã trốn thoát khỏi Berlin bằng máy bay. Bằng cách nào mà hắn có thể làm được điều này nếu như trước đó các sân bay đã bị tiêu huỷ và quân Đồng minh đang kiểm soát không phận?
Trong cuốn sách của tôi có đưa ra những bằng chứng bí mật từ tư liệu của cơ quan an ninh quốc gia, rằng ngày 30/4/1945 vào lúc 16h30’(có nghĩa là 1 tiếng sau giả định tự sát của Hitler) người ta đã nhìn thấy Hitler đứng bên cạnh chiếc máy bay riêng Ju-52 của mình. Vào những đêm cuối tháng 4, máy bay của các nhân vật cao cấp của quốc trưởng đã hạ cánh xuống đại lộ Unter-den-Linden, nơi đây vẫn còn lưu giữ những chiếc cột đèn đường. Tên bộ trưởng Slpeer đã rời boong-ke vào ngày 20 và ba ngày sau đó đã bình thản trở lại trên chiếc máy bay “Fizeler Storg”. Vậy là quân Đồng minh đâu có cản trở hắn ta. Ngày 25/4 tại boong-ke của quốc trưởng đã có một cuộc họp bí mật về việc đưa Hitler đi di tản. Dự họp có nữ phi công Hanna Rits, viên phi công nổi tiếng Hans Ulrich Rudel và phi công riêng của Hitler là Hans Baur. Kế hoạch bí mật về việc này mang mật danh là “Chiến dịch Seral”.
- Vậy theo ông thì ai là kẻ đã chở Hitler đi?
Hai ngày sau có 5 chiếc máy bay “Storg” đến Berlin (mỗi chiếc chở được 10 người), ngày 28/4, chính chiếc Ju-52 do viên phi công Bosser lái đã bay tới – điều này đã được tình báo của quân Đồng minh chính thức khẳng định. Một ngày sau theo lệnh của tướng Adolf Galland, các lực lượng không quân cuối cùng của Đức đã bất ngờ bay trên bầu trời thủ đô của Đức quốc xã, gồm hàng trăm máy bay tiêm kích Me-262. Chúng đã bay yểm hộ chiếc phi cơ của Hanna Rits giúp cô ta bay xuyên qua được lọat đạn cao xạ pháo của Liên Xô và ra khỏi Berlin. Đây là chuyến bay thử nghiệm và sự kiện này đã bị ai đó trong số các nhà sử học bác bỏ. Ngày hôm sau theo kịch bản thử nghiệm của Rits thì Adolf Hitler đã rời Berlin đến Tây Ban Nha. Đến cuối mùa hè hắn đã rời nơi này đi đến Argentina trên một chiếc tàu ngầm. Tiễn Hitler có Muller và Bormann.
- Thế nhưng làm thế nào mà lại có được hàm răng của Hitler đang được lưu giữ tại Moskva trong viện lưu trữ của FSB (cơ quan an ninh liên bang Nga)? Các nghiên cứu của Liên Xô cũng như của các chuyên gia đã nhất trí khẳng định đó đúng là hàm răng của tên quốc trưởng. Vậy điều gì đã xảy ra khi người ta đã nhổ một phần hàm răng của Hitler, còn hắn thì vẫn chạy thoát?
Các chuyên gia chỉ có khả năng so sánh hàm răng đã bị hàn đó với những bức ảnh chụp X-quang có chất lượng rất kém của thời đó, cùng với lời chỉ dẫn của viên nha sỹ tư của Hitler, tên này thì có thể nói tất cả những gì mình muốn. Tuy nhiên vẫn có một cách duy nhất để nhận biết sự thật. Cần so sánh các mẫu ADN có thể nhận được từ người chị ruột của Hitler là Paula – người đã chết từ năm 1960 và được mai táng tại nghĩa trang Bergfrifhof. Tôi đã chính thức đề nghị với chính quyền Nga được nghiên cứu về hàm răng này để có được bằng chứng xác đáng là tôi nói đúng sự thật.
- Bao nhiêu năm nay người ta vẫn nói về sự mất tích bí mật của “nhân vật số 2” Martin Bormann, kẻ đã “bốc hơi” khỏi Berlin ngày 1/5/1945. Đa số họ thề rằng đã tận mắt nhìn thấy hắn ở Nam Mỹ và họ không thể nhầm được. Thế nhưng đến năm 1972 trong khi đào hố móng ở Berlin đã tìm thấy một bộ xương và qua nghiên cứu ADN cho thấy đó là bộ xương của Bormann. 
Điều đáng buồn cười là cả hai điều trên đều đúng. Martin Bormann quả thật là đã bỏ trốn, hắn đã sống ở Argentina và Paraguay. Tôi đã tìm được khá nhiều bằng chứng về việc này, trong đó có cả các tài liệu, đặc biệt là ảnh của Borman chụp từ những năm 50. Vì thế, hoàn toàn có thể là khi Borman chết một cách tự nhiên thì di hài của hắn đã được bí mật đưa về Berlin, sau đó thì người ta đã diễn một vở kịch với “chiến lợi phẩm” đã được tìm thấy.
- Trong cuốn sách của mình, ông có viết là Hitler và Eva Braun cùng với một đoàn tuỳ tùng lớn và vệ sỹ đã đến Argentina trên ba chiếc tàu ngầm mà sau này đã bị dìm xuống để bảo mật. Quả thật là tại chỗ đó ở độ sâu 30m, với sự hỗ trợ của thiết bị đặc biệt, đội chỉ huy thuỷ quân đã phát hiện thấy những vật lớn bị vùi xuống cát. Thế nhưng đâu là bằng chứng cho thấy đó chính là những chiếc tàu của Đức quốc xã?
Tôi dựa trên những chỉ dẫn của các nhân chứng sau chiến tranh, họ đã quan sát ba chiếc tàu ngầm có biểu tượng dấu thập ngoặc đi tới vịnh nhỏ thuộc tỉnh lỵ Rio-Hegro của Argentina. Argentina trong tình trạng chiến tranh với Đức chính thức từ ngày 27/3/1945, có thể đó là những dấu tích của các thuỷ binh thời đó chăng? Tuy nhiên, trong hồ sơ lưu trữ của Bộ quốc phòng Argentina không có một dòng nào nói về việc những chiếc tàu của Đức bị nhấn chìm cả. Vậy thì lấy đâu ra những chiếc tàu bị chìm này chứ? Tôi có đặt vấn đề là cần đưa những chiếc tàu ngầm này lên và nghiên cứu kỹ lưỡng. Sau chiến tranh, những chiếc tàu Đức đã đến Argentina một vài lần, chẳng hạn như tàu ngầm U-977 đã đến nước này vào ngày 17/8/1945 với giả thiết rằng viên chỉ huy tàu là Hains Seffer đã chuyển vàng và những đồ trang sức khác của Đức quốc xã đến.
- Ông đã công bố tài liệu của FBI Mỹ khi đưa ra sự nghi vấn nghiêm túc về giả thiết cái chết của Adolf Hitler. Tờ giấy này có từ ngày 13/11/1945 gồm có bản báo cáo của một điệp viên Mỹ tại Argentina từng đóng vai người làm vườn cho gia đình di cư người Đức giàu có là vợ chồng Eikhornov. Điệp viên này thông báo rằng vợ chồng họ đang sống ở làng fLa-Falda. Từ tháng 6 họ đã chuẩn bị đến chỗ Hitler trong thời gian sớm nhất. Tài liệu này có phải là thực không?
Đây là câu hỏi rất cũ rồi, bởi vì tôi nhận được tài liệu này một cách hợp pháp khi nó không còn là bảo mật nữa từ hồ sơ lưu trữ của FBI – hồ sơ số 65-53615 và đó không phải là chứng cớ duy nhất về việc Hitler chạy trốn. Còn có một số báo cáo mật của FBI, FSB và MI-5 về chuyện ông ta còn sống, nhưng tiếc rằng Mỹ, Anh và Nga cho đến bây giờ đã không công khai tất cả những tài liệu có liên quan đến đề tài này. Chẳng hạn như có 3 bài báo ghi chép về cuộc nói chuyện của Iosip Stalin (một trong số đó là cuộc chuyện trò với cố vấn quốc gia Mỹ Birnso), trong đó nhà lãnh đạo Xô-viết công khai nói rằng Hitler đã trốn thoát. Trong suốt 15 năm tôi đã thực hiện hàng trăm cuộc phỏng vấn các nhân chứng đã trực tiếp nhìn thấy trùm phát xít này ở Argentina. Đa số họ chỉ đến bây giờ mới nói rằng nhiều tên quốc xã ở Argentina đã chết nên họ không có gì phải sợ nữa. Họ còn giữ được một bức thư của tên tướng Zeidlis đề năm 1956, hắn thông báo rằng đang chuẩn bị đến dự cuộc gặp mặt Hitler ở Argentina và “thủ lĩnh” Nam-tư Pavelits.
- Ông thường dẫn ra bằng chứng của các nhân chứng. Nhưng ông nghĩ sao trong khi có những nhân chứng khác nói rằng đã nhìn thấy Hitler chết và người ta đã chôn xác của ông ta?
Không một người nào tận mắt nhìn thấy Hitler đã nhai viên thuốc độc và tự bắn vào đầu mình. Câu chuyện trùm phát xít tự sát đã được những kẻ thân cận của Hitler nghĩ ra từ đầu đến cuối để làm mọi người rối trí. Nếu các vị nghiên cứu tài liệu lưu trữ sẽ thấy rằng, ngay cả khi họ đưa ra bằng chứng về cái chết của Hitler chăng nữa thì vẫn có những điều mâu thuẫn. Thoạt đầu thì họ nói rằng hắn đã tự đầu độc, sau đó thì không phải thế mà là tự bắn vào thái dương. Sau nữa thì, xin lỗi, họ lại nói lúc đầu tự đầu độc rồi sau mới tự bắn. Độc tố sianua gây nên cơn co giật và cái chết ngay tức thì, vậy sau đó làm sao mà hắn lại có thể bóp cò súng được chứ?
Ngọc Bích (theo AIF)

Chủ Nhật, 2 tháng 6, 2013

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO một thời nhếch nhác ( KỲ 37 )

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO một thời nhếch nhác ( KỲ 37 )

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO một thời nhếch nhác (KỲ 36 )

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO một thời nhếch nhác (KỲ 36 )

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO một thời nhếch nhác (KỲ 35 )

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO một thời nhếch nhác (KỲ 35 )

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO một thời nhếch nhác (KỲ 34)

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO một thời nhếch nhác (KỲ 34)

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO - một thời nhếch nhác (KỲ 33)

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO - một thời nhếch nhác (KỲ 33)

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO một thời nhếch nhác ( kỳ 21)

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO một thời nhếch nhác ( kỳ 21)

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GÍAO một thời nhếch nhác (KỲ 20)

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GÍAO một thời nhếch nhác (KỲ 20)

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO một thời nhếch nhác (KỲ 19)

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO một thời nhếch nhác (KỲ 19)

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO - một thời nhếch nhác ( KỲ 18)

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO - một thời nhếch nhác ( KỲ 18)

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO một thời nhêch nhác ( KỲ 17)

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO một thời nhêch nhác ( KỲ 17)

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO một thời nhếch nhác ( KỲ 16)

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO một thời nhếch nhác ( KỲ 16)

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO một thòi nhêch nhác (KỲ 15)

THỜI 2 Đ - blog NHẬT TUẤN: NHÀ GIÁO một thòi nhêch nhác (KỲ 15)

Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2013

Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Những từ ngữ đã đi vào quá khứ

http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/ngon-ngu-sai-gon-xua-nhung-tu-ngu-i-vao.html



Ngôn ngữ là phương tiện trao đổi ý tưởng trong cuộc sống hàng ngày. Thế cho nên, ngôn ngữ cũng phải thay đổi theo cách sống và lối sống của từng thời kỳ. Sự kiện tháng 4/1975 là một cột mốc thay đổi lớn nhất trong đời sống văn hóa, chính trị và xã hội của người miền Nam, kéo theo sự mai một của một số từ ngữ vốn đã dùng quen hàng ngày.
Thay đổi sâu rộng nhất là cả một hệ thống chính trị tại miền Nam cho nên những từ ngữ có liên quan đến ý thức hệ cũ dần dần đã đi vào quá khứ. Đó là quy luật tất yếu của cuộc sống. Bài viết này có mục đích ghi lại những từ ngữ đã một thời phổ biến trong xã hội miền Nam để những thế hệ kế tiếp có thể hiểu được những gì cha ông đã thường nói trong cuộc sống hàng ngày.
Chiêu hồi là một trong những từ ngữ của Sài Gòn xưa và sẽ dần dần đi vào quên lãng. Đây là một chương trình do chính phủ Việt Nam Cộng hòa đề ra để khuyến khích các thành phần vũ trang của Mặt trận Giải phóng miền Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa buông súng quay về với phe chính phủ. Vận động tuyên truyền được thực hiện dưới nhiều hình thức: truyền đơn thả từ máy bay hoặc qua những chương trình phát thanh và đài phát thanh [1]. 
Giấy Thông Hành

Chính phủ VNCH cho in và phổ biến Giấy thông hành nhằm mục đích giúp các cán binh, du kích trở về với quốc gia. Phần trên của Giấy thông hành có cờ VNCH và cờ của các quốc gia tham chiến gồm Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Thái Lan, Đại Hàn, Tân Tây Lan và Phi Luật Tân. Giấy thông hành được viết bằng 4 ngôn ngữ: Tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Đại Hàn và tiếng Thái. Phần dưới có nội dung như sau:
“MANG TẤM GIẤY THÔNG HÀNH nầy về cộng tác với Chánh Phủ Quốc Gia các bạn sẽ được:
  • Đón tiếp tử tế
  • Bảo đảm an ninh
  • Đãi ngộ tương xứng
(Ký tên)
Nguyễn Văn Thiệu
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa
Song song với việc phổ biến Giấy Thông Hành là các chương trình Phát thanh Chiêu hồi được mở đầu bằng bản nhạc Ngày Về của Hoàng Giác được dùng làm nhạc hiệu (nghe Ngày Về qua giọng ca của Anh Ngọc trên http://www.youtube.com/watch?v=rNKpu3IEW2c):
"Tung cánh chim tìm về tổ ấm
nơi sống bao ngày giờ đằm thắm
nhớ phút chia ly, ngại ngùng bước chân đi
luyến tiếc bao ngày xanh…”
Điều khá lý thú là Hoàng Giác (sinh năm 1924) vốn là nhạc sĩ theo kháng chiến chống Pháp và đã từng là đội viên tuyên truyền trong chiến khu Việt Bắc. Năm 1947, Hoàng Giác viết Ngày về, theo ông, đó là ca khúc ưng ý nhất. Năm 1948 Hoàng Giác “dinh tê” trở về Hà Nội, hoạt động nghệ thuật như một nhạc sĩ và cũng là một ca sĩ được dân Hà Thành hâm mộ.
Cũng giống như một số nhạc sĩ cùng thời, Hoàng Giác sáng tác không nhiều, chỉ khoảng 20 ca khúc, trong số đó có những bài hát nổi tiếng, vượt thời gian như Mơ hoa, Ngày về, Hương lúa đồng quê. Ông hiện sống ở Hà Nội và có người con trai là nhà thơ khá nổi tiếng Hoàng Nhuận Cầm.
Báo Công an Nhân dân trong bài viết “Nhạc sĩ Hoàng Giác: Mãi giấc mơ hoa” có đoạn đề cập đến bản nhạc Ngày về: “Sau khi được một số ca sĩ hát ở ngoài Bắc, vào cuối thập niên 60 của thế kỷ trước, rất ngẫu nhiên, giai điệu của "Ngày về" được chính phủ Việt Nam Cộng hòa chọn làm nhạc hiệu cho chương trình Chiêu hồi. Vì tình huống nhạy cảm này mà mãi đến sau 1975, bài "Ngày về" mới được hát trở lại ở ngoài Bắc với nhiều giọng ca nổi tiếng như tài tử Ngọc Bảo, Cao Minh, Lê Dung, Ngọc Tân…”
Nhạc sĩ Hoàng Giác

Những cán binh trở về với Chính phủ VNCH được gọi là người hồi chánh hay hồi chánh viên. Trong số những người hồi chánh có ca sĩ Bùi Thiện và Đoàn Chính (con trai nhạc sĩ Đoàn Chuẩn), nhà văn Xuân Vũ (tác giả hồi ký Đường Đi Không Đến  và Vượt Trường Sơn, đã qua đời tại Texas năm 2002), Trung Tá Lê Xuân Chuyên (bị chính quyền mới xử tử hình vào ngày 30/4/1975), Trung tá Tám Hà, Trung tá Phan Văn Xưởng, Trung tá Huỳnh Cự… 
Hồi chánh viên (từ trái qua phải): Trung Tá Phạm Viết Dũng,
Trung đoàn phó Phạm Văn Xướng, Trung Tá Tám Hà

Chiêu hồi, ngoài ý nghĩa chính trị còn được dùng như động từ để chiêu dụ ai đó, chẳng hạn như trong câu: “Hắn đã ‘chiêu hồi’ được một tay chọc trời khuấy nước về làm việc dưới trướng”. Gần đây, trên http://nguoivietblog.com/hagiang/?p=497, tác giả Tam Thanh có một bài viết với tiêu đề “Chiêu hồi” ngôn ngữ, bàn về cách dùng khác nhau và ý nghĩa đúng-sai của những từ ngữ xuất xứ từ miền Nam và miền Bắc.
Trần Trung Đạo trong bài “Mặc cảm chiêu hồi và khát vọng tự do” viết:  “Tôi có mặc cảm rằng ra Hà Nội là đầu hàng, ra Hà Nội là chấp nhận chế độ, là một hình thức chiêu hồi. Tôi ở lại Việt Nam thêm 6 năm nhưng nhất định không đi thăm miền Bắc, dù có nhiều cơ hội…” (http://www.trantrungdao.com/?p=262).
Thuật ngữ “chém vè” cũng là một từ ngữ chính trị được sử dụng tại miền Nam. Chém vè, nguyên thủy có ý nghĩa ẩn mình dưới nước hoặc những nơi lùm bụi rậm rạp gần bờ nước để trốn tránh. Theo một số người, “chém vè” xuất phát từ con ba ba (cua đinh) với hai càng rất khỏe còn gọi là . Hễ nghe tiếng động, hai của nó chém mạnh rồi chui vào bùn để trốn.
Đối với chính quyền VNCH, thuật ngữ “chém vè” chỉ tình trạng các cán binh “giã từ vũ khí” để ra “hồi chánh”. Xem ra, cũng chỉ một từ ngữ nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác nhau tùy theo chính kiến. Đó cũng là điều dễ hiểu ở một đất nước đang trong tình trạng chiến tranh về ý thức hệ.
Chuyện cười của Bác Ba Phi trong Rùa U Minh viết: “Hai bác cháu tui chạy một mạch qua tới Lung Bùn, chém vè cho tới chiều. Về chưa tới nhà thì thằng Ba Lùn chặn lại rủ vô nhà nhậu thịt rùa rang muối. Nó bảo là hồi trưa nó đốt giang sậy ven Lung Tràm, bắt được vài chục con rùa. Nghe nói mà tui tiếc hùi hụi. Hồi trưa thấy bầy rùa bò đó mà tưởng đâu xe lội nước [thiết vận xa M113, chú thích của NNC], bỏ chạy trốn. Thiệt tức!”. Chém vè ở đây chỉ thuần túy là ẩn núp.
Theo hồi ký Chém vè giữa làng báo Sài Gòn của nhà văn Nguyên Hùng [2], thuật ngữ “chém vè” trong bài viết này chỉ việc những cán bộ Cộng sản, sau hiệp định Genève 1954, được đưa về Sài Gòn để “trường kỳ mai phục”, “hoạt động trong lòng địch” hay còn gọi là “nằm vùng”.
Nằm vùng” quả là một từ vừa gợi hình lại gợi ý. Đối với chính quyền VNCH, nằm vùng là một từ có ý miệt thị chỉ những người sinh sống tại miền Nam hoạt động bí mật cho Cộng sản, tương tự như cụm từ người ta thường nói: “Ăn cơm Quốc gia, thờ ma Cộng sản”. Mãi đến sau năm 1975, những nhân vật nằm vùng mới dần dần lộ diện.
Theo cuốn Decent Interval của Frank Snepp, cựu chuyên viên thẩm vấn của CIA, có đến hàng chục ngàn cán bộ Cộng sản “nằm vùng” tại miền Nam trong cuộc chiến vừa qua. Họ có thể là một người lái taxi, đạp cyclo… hằng ngày vẫn theo đuổi công việc của mình nhưng sau 30/4/1975 họ lại là những cán bộ trong Ủy ban Quân quản giữ nhiệm vụ điều hành một thành phố Sài Gòn còn đang trong thời kỳ hỗn mang.
Ở một mức độ cao hơn, cán bộ “nằm vùng” nằm ngay trong guồng máy chính phủ Sài Gòn, nổi bật nhất là nhân vật tình báo bí ẩn Phạm Ngọc Thảo [3]. Điều bất ngờ là Thảo mang cấp bậc Đại tá của Quân lực VNCH tại miền Nam trong khi chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm vẫn không biết ông còn là Đại tá trong Quân đội Nhân dân ở miền Bắc.
Biết Phạm Ngọc Thảo từng là chỉ huy du kích Việt Minh, đầu năm 1961 Ngô Đình Nhu đã quyết định cử ông làm tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hòa (tức Bến Tre) để trắc nghiệm Chương trình Bình định. Từ khi Phạm Ngọc Thảo nhậm chức, tình hình an ninh tại vùng này trở nên rất yên ổn, không còn bị phục kích hay phá hoại nữa. Tuy nhiên, do có nhiều tố cáo nghi ngờ ông là “cán bộ cộng sản nằm vùng”, ông thôi giữ chức Tỉnh trưởng và được cử sang Hoa Kỳ học một khóa về chỉ huy và tham mưu.
Tháng 9/1963 Bác sĩ Trần Kim Tuyến (nguyên Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị, thực chất là cơ quan mật vụ) và Phạm Ngọc Thảo âm mưu một cuộc đảo chính. Phạm Ngọc Thảo đã kêu gọi được một số đơn vị như Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, Biệt động quân, Bảo an... sẵn sàng tham gia. Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ ngày 1/11/1963, Phạm Ngọc Thảo được lên chức đại tá, làm tùy viên báo chí trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng.
Sau đó, Phạm Ngọc Thảo phải rút vào hoạt động bí mật cho phía bên kia chiến tuyến vì ngày càng nhiều nghi vấn ông là Việt Cộng mằm vùng. Phạm Ngọc Thảo bị chính quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu kết án tử hình và treo giải 3 triệu đồng cho ai bắt được. Cuối cùng, Phạm Ngọc Thảo bị Cục an ninh quân đội (Số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm) bắt giữ và bị thủ tiêu ngày 17/7/1965 khi mới 43 tuổi. 
Những năm hoạt động “nằm vùng” của Phạm Ngọc Thảo cho chính quyền miền Bắc được ngụy trang rất kỹ và rất ít người ở miền Nam biết ông là một nhà tình báo. Ngay cả sau 30/4/1975, nấm mộ ông vẫn chỉ là nấm mồ vô danh vì ông hoạt động “đơn tuyến”. Mãi sau này, một số đồng đội đã sưu tầm tài liệu về ông và đề nghị Nhà nước truy tặng ông danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân... Năm 1987, nhà cầm quyền truy tặng ông danh hiệu liệt sỹ với quân hàm đại tá và mộ của ông được đưa về nghĩa trang thành phố, trên đồi Lạc Cảnh (huyện Thủ Đức).
Phạm Ngọc Thảo được coi là một trong 4 tình báo viên xuất sắc nhất của Chính phủ miền Bắc (3 người kia là Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ và Lê Hữu Thúy). Đối với Chính phủ miền Nam, cả 4 người này đều là “Việt Cộng Nằm Vùng”, không hơn không kém!
Tiểu thuyết Ván Bài Lật Ngửa của nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý (Trần Bạch Đằng) được mở đầu bằng câu: “Tưởng nhớ anh Chín T. và những người đã chiến đấu hy sinh thầm lặng”. Nhân vật chính trong truyện, Nguyễn Thành Luân, chính là hình ảnh của Phạm Ngọc Thảo, bí danh Chín T. hay Chín Thảo.
Đại tá Phạm Ngọc Thảo dưới sắc áo Quốc gia

Nhân vật “nằm vùng” thứ hai là Phạm Xuân Ẩn [4] là một thiếu tướng tình báo của Hà Nội với biệt danh Trần Văn Trung hay Hai Trung. Trong suốt thời gian chiến tranh, Phạm Xuân Ẩn sống tại Sài Gòn dưới vỏ bọc “ký giả” làm việc tại Việt tấn xã, cộng tác với hãng thông tấn Reuters và có nhiều bài viết trên tạp chí Time, New York Herald Tribune, The Christian Science Monitor...
Theo một tài liệu được công bố, Phạm Xuân Ẩn đã gửi về Hà Nội 498 báo cáo bao gồm tài liệu nguyên gốc đã được sao chụp, các thông tin thu lượm cùng phân tích và nhận định của Ẩn về VNCH và Hoa Kỳ. Là người đã từng được đào tạo về ngành báo chí tại Mỹ, Phạm Xuân Ẩn là nhân vật được chèo kéo bởi nhiều cơ quan tình báo miền Nam cũng như miền Bắc, trong nước cũng như ngoài nước, kể cả CIA.
Ngày Sài Gòn đổi chủ, vợ con Phạm Xuân Ẩn đã rời Việt Nam theo chiến dịch di tản của người Mỹ và theo kế hoạch của miền Bắc, ông sẽ được gửi sang Mỹ để tiếp tục hoạt động tình báo. Tuy nhiên, theo một số tài liệu, Phạm Xuân Ẩn đã đề nghị cấp trên cho ngưng công tác vì lý do đã “hoàn thành nhiệm vụ”. Kế hoạch thay đổi, vợ con ông đã phải mất một năm để quay lại Việt Nam theo đường vòng: Paris - Moscow - Hà Nội - Sài Gòn.
Như cái tên “định mệnh” mà ông mang, cuộc đời của Phạm Xuân Ẩn lúc “ẩn”, lúc “hiện” và cũng có lúc “lên voi”, lúc “xuống chó”. Năm 1997, chính phủ Việt Nam từ chối không cho phép Phạm Xuân Ẩn đến Hoa Kỳ để dự một hội nghị ở New York mà ông được mời với tư cách khách mời đặc biệt. Trong những năm cuối đời, có vẻ như Phạm Xuân Ẩn cảm thấy thất vọng với những gì ông chứng kiến tại Việt Nam sau cuộc chiến. Ông tiết lộ với Thomas A. Bass, tác giả cuốn The Spy Who Loved Us: “Dân chúng tại đây [tức Việt Nam] không được viết tự do. Đó là vì sao tôi không viết hồi ký”.
Năm 1978, Phạm Xuân Ẩn phải ra Hà Nội học tập chính trị dành cho cán bộ cao cấp trong 10 tháng. Sự kiện này được xem như một hình thức “cải tạo” và ông giải thích vì lý do đã “sống quá lâu trong lòng địch”. Có người cho rằng ông bị nghi kị và bị quản chế tại gia, không được xuất ngoại, bị cấm tiếp xúc với bên ngoài, đặc biệt với giới báo chí ngoại quốc do cách suy nghĩ, cư xử… “rất Mỹ”.
Ông đã từng giúp bác sĩ Trần Kim Tuyến rời khỏi Việt Nam vào ngày 30/4/1975 (Bác sĩ Tuyến là “xếp” cũ của Phạm Xuân Ẩn năm 1959. Cơ quan mật vụ của BS Tuyến biệt phái ông sang làm việc tại Việt tấn xã, phụ trách bộ phận các phóng viên ngoại quốc làm việc trong cơ quan này).  
Phạm Xuân Ẩn và các con

Vũ Ngọc Nhạ [5], Thiếu tướng tình báo của Hà Nội cũng là một trường hợp “nằm vùng” ngay trong đầu não của nền Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa tại miền Nam, kéo dài từ năm 1954 đến ngày Sài Gòn sụp đổ. Miền Bắc ca tụng ông là “điệp viên siêu hạng” với những “điệp vụ bất khả thi” trong “vụ án chính trị lớn nhất thời đại”.
Với vỏ bọc của một “con chiên ngoan đạo” đã từng sát cánh với Giám mục Lê Hữu Từ và Linh mục Hoàng Quỳnh, Phạm Ngọc Thảo trở thành một người tâm phúc, thường xuyên bàn bạc những vấn đề cơ mật với Tổng thống Ngô Đình Diệm. Thời Đệ nhất Cộng hòa có “bốn con rồng”: Bạch Long (Ngô Đình Diệm), Hồng Long (Ngô Đình Thục), Thanh Long (Ngô Đình Nhu) và Hắc Long (Ngô Đình Cẩn). Cố vấn Ngô Đình Nhu đã gọi Vũ Ngọc Nhạ là Hoàng Long để trở thành con rồng thứ năm trong Ngũ Long của Đệ nhất Cộng hòa.
Cuối năm 1965, do sự chạy đua quyền lực quyết liệt trong nhóm các tướng trẻ, tướng Nguyễn Văn Thiệu đã sử dụng Vũ Ngọc Nhạ trong vai trò liên lạc viên với Công giáo, qua sự giới thiệu của Linh mục Hoàng Quỳnh, nhằm tìm chỗ dựa chính trị. Là một điệp viên, Vũ Ngọc Nhạ đã khéo léo sử dụng vai trò này để tạo dựng các mối quan hệ và gây ảnh hưởng đến giới chính trị cả trong dân sự lẫn quân sự.
Một lần nữa, Vũ Ngọc Nhạ trở thành “Ông Cố Vấn” sau khi tướng Thiệu đắc cử Tổng thống năm 1967. Đây cũng là thời điểm mạng lưới tình báo A.22 (vốn là mật danh riêng của Nhạ) được hình thành và phát triển. Thành công ngoạn mục nhất của cụm tình báo A22 là thu hút được Huỳnh Văn Trọng, một phụ tá của Tổng thống Thiệu.
Tháng 8/1968, tướng Thiệu đã cử Huỳnh Văn Trọng cầm đầu một phái đoàn của Việt Nam Cộng hòa sang Hoa Kỳ tiếp xúc, gặp gỡ với hàng loạt tổ chức, cá nhân trong chính phủ và chính giới Hoa Kỳ để thăm dò thái độ của Chính phủ Johnson đối với cuộc chiến tại Việt Nam. Chính những thông tin này đã góp một phần cho Hà Nội trước khi ngồi vào bàn đàm phán tại Paris với Mỹ.
Vũ Ngọc Nhạ và “vụ án chính trị lớn nhất thời đại

Ở trường Sinh ngữ Quân đội, một đơn vị tương đối nhỏ trong quân lực VNCH, cũng đã có vài trường hợp “nằm vùng”. Nổi bật nhất có Đại úy TVQ và Thiếu úy NCD. Đại úy Q. là người từ đơn vị chuyển về trường SNQĐ khi nhu cầu huấn luyện Anh văn cho quân đội tăng cao do chương trình Việt Nam hóa chiến tranh nhằm đào tạo quân nhân các binh chủng Hải-Lục-Không quân VNCH đi học chuyên môn tại Hoa Kỳ để về nước đảm nhận công việc của quân đội Mỹ.
Sự gia tăng bất ngờ về số khóa sinh tại trường SNQĐ khiến nhà trường phải tuyển thêm quân nhân có khả năng tiếng Anh từ các đơn vị về để đào tạo thành giảng viên Anh ngữ. Đại úy Q. thuộc thành phần bổ xung đó. Q. về trường khi đã đeo lon Đại úy từ một đơn vị chiến tranh chính trị. Anh là một sĩ quan hiền lành, ít nói nhưng sau ngày 30/4/75 bạn bè cũ mới “bật ngửa” khi biết anh thuộc hàng ngũ… bên kia chiến tuyến.
Sau thời gian cải tạo tôi trở về Sài Gòn gặp lại Q. khi đó là nhân viên hành chánh của trường Đại học Kinh tế. Tôi tiếp xúc với anh một cách dè dặt trong một vài buổi họp mặt các anh em giảng viên cũ. Sau đó Q. biến mất khỏi các cuộc gặp gỡ, có lẽ vì không chịu nổi những xầm xì, bàn tán về vai trò “nằm vùng” của mình.
Trường hợp “nằm vùng” thứ hai ở trường SNQĐ là Thiếu úy NCD, một người được tuyển thẳng từ Thủ Đức về trường. Cũng như Đại úy Q., Thiếu úy D. là người ít nói và hầu như rất ít giảng viên trong trường để ý đến người thanh niên “trầm lặng” này. Sau này, có một số anh em giảng viên nói chính Thiếu úy NCD đã “tiếp quản” trường SNQĐ những ngày đầu tháng 5/75.
Hành tung của viên thiếu úy “nằm vùng” được sáng tỏ: người anh của NCD là một cán bộ cao cấp. Được coi là một trí thức Marx-Lenin, Viện sĩ NCT (Sáu Quang), anh ruột NCD, là nguyên Bí thư Thành Đoàn giai đoạn 1977 - 1981, Trưởng Ban quản lý Khu Chế Xuất – Khu Công Nghiệp đầu tiên của thành phố, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban về Người Việt Nam ở nước ngoài và hiện là Viện phó Viện khoa học công nghệ Phương Nam (thuộc Liên hiệp Khoa học kỹ thuật Việt Nam). Có người anh như vậy nên thiếu úy NCD không “nằm vùng” mới là chuyện lạ!
Với những câu chuyện “nằm vùng” điển hình ở mọi cấp chính quyền miền Nam kể trên, quân đội miền Bắc ngày càng tiến dần đến thủ đô và người Sài Gòn ngỡ ngàng trước biến cố 30/4/1975. “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” có lẽ là một trong những triết lý thâm thúy nhất được rút ra trong cuộc chiến vừa qua.
===   

Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Lính tráng (2)

http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/ngon-ngu-sai-gon-xua-linh-trang-2.html




(Tiếp theo)
Trong lãnh vực văn chương, Sài Gòn xưa không thiếu những ấn phẩm viết về lính. Một trong những tác phẩm nổi bật là Đời Phi Công của nhà văn Toàn Phong, bút hiệu của Đại tá Không quân Nguyễn Xuân Vinh.  Đời Phi Công xuất bản lần đầu năm 1960 và được Giải thưởng Văn chương Toàn quốc cùng năm. Trong một phỏng vấn ở hải ngoại sau này, tác giả Toàn Phong cho biết ông bắt đầu viết Đời Phi Công vào năm 1959 và đăng mỗi tuần một kỳ vào ngày thứ Hai trên nhật báo Tự Do.
Đời Phi Công là một cuốn truyện dưới dạng những bức thư của một phi công viết cho người yêu là sinh viên tên Phượng để kể cho nàng nghe cuộc đời của những người hàng ngày “lướt gió tung mây”, đêm thì dõi theo “ánh tinh cầu”. Những bức thư ghi lại kỷ niệm vui buồn trong những phi vụ, kể lại một cuộc sống vừa lãng mạn vừa sôi nổi  của một phi công thời chiến.
Đời Phi Công ra đời làm nức lòng các thanh niên thiếu nữ. Thanh niên thì nuôi giấc mộng hải hồ, thiếu nữ thì mơ có người yêu là một chàng phi công hào hoa “đi mây về gió”. Tác phẩm này đã là đề tài của nhiều buổi thuyết trình và có những đoạn được trích dẫn trong chương trình “kim văn” trung học đệ nhất cấp.
Trong một bức thư gửi cho Phượng khi bước chân sang Pháp học lái máy bay, Toàn Phong viết: “Em cũng như tất cả những người thân-tình, cũng như tất cả những người dân Việt, chắc hẳn phải đồng ý rằng nước nhà cần có đủ mọi ngành quân-lực. Đường đời muôn vạn nẻo anh đã chọn lấy một hướng, dù gian-nan muôn trùng anh cũng sẽ mỉm cười dấn bước”.
Ngôn ngữ trong Đời phi công là một thứ ngôn ngữ gợi hình. Tác giả gọi những bức thư là “giòng lá thắm”, ánh mắt của cô Phượng “trông như ánh pha-lê”, hành trình của người con trai thời chiến như “một chiếc lá vàng đã trót được thả trên giòng đời” còn phi công được thi vị hóa như những “tráng-sĩ” hay “hiệp-sĩ không-trung”…
Nếu để ý, ta sẽ thấy những từ Hán-Việt đều được Toàn Phong viết có gạch nối. Đó là phong cách viết cầu kỳ của người Sài Gòn xưa. Tham khảo thêm về Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh tại http://nguyenngocchinh.multiply.com/journal/item/27  (Đà Lạt sương mù: Hồi ức về một người thân). 
 
Phi công VNCH sau phi vụ “Bắc Phạt” năm 1965
 
Nhà văn quân đội thứ hai mà tôi muốn đề cập đến là Thế Uyên. Tôi biết Thế Uyên khi còn học tại Ban Mê Thuột. Khi đó ông lưu lạc đến cao nguyên đất đỏ trong vai trò một giáo sư dạy môn Công dân Giáo dụcTriết trước khi bị động viên vào khoá 14 Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, cùng một lượt với nhà thơ Thanh Tâm Tuyền.
Thầy trò chỉ hơn nhau có 11 tuổi nhưng, đối với tôi, thầy Dũng mang dáng dấp của một người từng trải với điếu thuốc lúc nào cũng gắn trên môi. Thế Uyên, bút hiệu của Nguyễn Kim Dũng, sinh năm 1935 tại Hà Nội trong một gia đình có truyền thống văn học. Mẹ ông là em ruột nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, và là chị nhà văn Thạch Lam.
Sau 1975, cũng như hàng trăm ngàn sĩ quan của miền Nam, ông bị đi tù cải tạo một thời gian, trước khi đến định cư tại Mỹ. Cách đây vài năm ông bị “stroke” tê bại một nửa người, phải ngồi trên xe lăn để di chuyển trong nhà. Tuy nhiên, bằng một nghị lực phi thường, ông đã tập viết lại bằng tay trái, và đã viết bài cho các tạp chí văn học hải ngoại.
 
Đoạn đường chiến binh – Thế Uyên
 
Thế Uyên là tác giả của các tác phẩm nổi tiếng xoay quanh người lính trong chiến tranh Việt Nam như Mười ngày phép của một người lính, Tiền đồn, Đoạn đường chiến binh... Trong một cuộc phỏng vấn Thế Uyên cho biết:
Nếu nghề dạy học đã làm tôi hút thuốc lá từ lúc trẻ cho tới khi bị stroke, thì nghề làm lính làm tôi thích bia rượu và thay đổi hẳn quan niệm và cách viết văn. Tôi từ bỏ (hay bị từ bỏ, vì hoàn cảnh sống có tác động mạnh đến bút pháp) lối viết và đề tài cũ, giã từ những mối tình trai gái lãng mạn trong thành phố an bình, chuyển sang chiến tranh và các hệ luỵ của nó. Với tôi, quân đội và chiến tranh, như một vết cắt, thành trước và sau, before and after, trước sex vẫn hiện diện, nhẹ nhàng thôi, bây giờ sex nặng nề, tràn đầy… Như trong Tiền Đồn, Mười Ngày Phép Của Một Người Lính, Nỗi Chết Không Rời... 
 
Thủ bút và chân dung Thế Uyên (tranh của Tạ Tỵ)
 
Trong tác phẩm Tiền đồn, Chị Ba, người nông dân tượng trưng cho người dân Việt Nam -ở cả miền Nam lẫn miền Bắc - đã phải, đượcbị làm tình với cả ba phe lâm chiến hồi đó: lính miền Bắc, lính miền Nam và lính Mỹ. Đó là một đề tài sex rất mới lạ trong mảng chiến tranh mà Thế Uyên đã đưa vào tiểu thuyết. Có người bảo giữa tình dục và chiến tranh hoàn toàn không có gì liên quan đến nhau nhưng Thế Uyên lại nghĩ khác:
“…Nhà văn Võ Phiến (một người không đi lính và không ở tiền tuyến với súng đạn chông mìn) không đồng ý với phân tích đó, cho rằng chiến tranh vẫn có đó, cho nhiều người, nhưng không liên quan gì đến tăng hay giảm sex trong văn chương... Tôi tôn trọng ý kiến nhưng không đồng ý với bậc đại trưởng lão này. Để tránh tranh cãi, tôi xin nói lại thế này: Riêng đối với cá nhân tôi, đang khi và sau khi rời mặt trận, tôi cảm thấy phải sử dụng tới sex, tới làm tình, nghĩa là sự sống, tạo sự sống, mới diễn tả được chiến tranh, sự chết, huỷ diệt. Tôi cảm thấy thế thì phải viết như thế, thật tự nhiên, không gò ép…
Tiền đồn còn có những chi tiết nhỏ nhoi mà những tác giả chưa từng sống trong tâm trạng của người lính trực tiếp cầm súng không thể nào có được: “Mới chỉ thiếu đi một khoảnh khắc ánh trăng ... mình mệt rồi, chàng thì thào, phải kiếm đôi giày khác, đưa đôi này đi làm fermeture. Một thằng bạn nào đã nói: Phải đi giày có fermeture mới đỡ căng thẳng thần kinh... Hắn có lý đấy, chàng sợ nhất ban đêm bị đánh bất ngờ, xỏ giày không kịp, cứ chân không tác chiến và chạy băng bờ bụi…
Trong giai đoạn “chiến tranh du kích”, người Sài Gòn dùng cụm từ “đắp mô” để chỉ những hoạt động của du kích MTGPMN tối tối thường ra các trục lộ giao thông phá hoại đường xá. Trong Tiền Đồn, chuyện “đắp mô” của “những người anh em phía bên kia” lại được Thế Uyên diễn tả bằng “ngôn ngữ của lính”: 
Hai tiếng nổ lớn kế tiếp vang dội. Những viên đất nhỏ rơi lả tả trên đầu, quần áo. Vũ quay đầu lại la lớn về phía toán đang dùng TNT phá ụ: "Còn mấy cái mả Hồ Chí Minh nữa mới xong?". Một tiếng la trả lời: "Ba mả nữa!". 
 
Người lính tiền đồn và gia đình
 
Dĩ nhiên trong lãnh vực báo chí Sài Gòn xưa tràn ngập những tin tức liên quan đến lính, từ các mục Tin Chiến Sự, Tin Chiến Trường đến các mục Hậu phương & Tiền Tuyến, Ủy lạo binh sĩ, v.v… Riêng quân đội cũng có cơ quan báo chí trực thuộc Phòng 5 Bộ tổng tham mưu với tờ Phụng Sự, ấn phẩm ra hàng tháng trong suốt thời gian từ 1953 đến 1960. Phụng Sự là tạp chí nghị luận, biên khảo và văn nghệ với sự góp mặt của Toàn Phong (tác giả Đời Phi Công đã đề cập đến ở phần trên), Hoàng Ngọc Liên, Hà Liên Tử, Nguyễn Mạnh Côn, Uyên Thao, Phan Lạc Tuyên…
Báo Chiến Sĩ Cộng Hòa (1959-1974) là cơ quan hợp nhất hai tờ Phụng SựQuân Đội và tạp chí Chỉ Đạo xuất hiện từ tháng 10/1956 thuộc Ủy ban Chỉ đạo chiến dịch Tố Cộng. Ngoài những nhà văn vừa kể, những tờ báo lính còn xuất hiện bài vở của các cây bút tiếng tăm trong và ngoài quân đội như Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Thiệu Lâu, Toan Ánh, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Bình Nguyên Lộc, Trần Phong Giao, Dương Kiền, Duyên Anh, Hà Huyền Chi
Nguyệt san Quân Đội của Nha Chiến tranh Tâm lý xuất hiện từ đầu năm 1957 đến 1960, do Trung-úy Tô Kiều Ngân làm chủ bút (hẳn bạn đọc còn nhớ tiếng sáo của Tô Kiều Ngân trong chương trình Tao Đàn trên đài phát thanh Sài Gòn). Tiếp đến là những tờ Tiền Phong, Lý Tưởng, Mũ Đỏ, Lướt Sóng, Tinh Thần, Khởi Hành, và các nhật báo Tiếng Dân, Dân Việt, Tiền Tuyến
Tổng thống Ngô Đình Diệm đã xác định trong một bài diễn văn tại trường Sĩ quan Võ bị Đà Lạt năm 1960: “Cuộc chiến tranh ta phải đương đầu không phải là một thứ chiến tranh quân cụ, một thứ chiến tranh bấm nút, hay một thứ chiến tranh chỉ liên hệ đến một số quân nhân mà thôi đâu. Thứ chiến tranh mà ta phải đối địch là thứ chiến tranh cách mạng, một thứ chiến tranh lý tưởng liên hệ trực tiếp đến toàn dân, và trong đó yếu tố tinh thần, yếu tố tin tưởng vào chế độ của mình là yếu tố quyết định”.
Ngày Quân-lực VNCH được chính thức chọn vào ngày 19/6/1965 trong thời Ðệ nhị Cộng hòa (dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, và Chủ tịch Ủy ban hành pháp Trung ương, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ) sau khi nền Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Từ năm 1965 cho đến 1974 đều có các cuộc diễn binh trọng thể để kỷ niệm Ngày Quân Lực tại Sài Gòn. (Một sự tình cờ ngẫu nhiên 19/6 lại trùng với ngày sinh của tác giả bài viết này (19/6/1946)!
 
Diễn binh mừng Ngày Quân Lực 19/6
 
Khẩu hiệu chính của quân đội VNCH là “Danh dự – Trách nhiệm – Tổ quốc”, mỗi binh chủng lại còn có khẩu hiệu riêng, chẳng hạn như Không quân là “Tổ quốc, Không gian”, “Bảo quốc, Trấn không” hoặc Cảnh sát thì có “Cảnh sát Quốc gia, Phục vụ Đồng bào”… Các đơn vị quân đội VNCH ngoài tên gọi còn có những “biệt danh” nghe rất kêu nhưng cũng rất ngổ ngáo. Thủy quân lục chiếnQuái Điểu (tiểu đoàn 1), Trâu Điên (tiểu đoàn 2), Sói Biển (tiểu đoàn 3), Kình Ngư (tiểu đoàn 4), Hắc Long (tiểu đoàn 5), Thần Ưng (tiểu đoàn 6), Hùm Xám (tiểu đoàn 7), Ó Biển (tiểu đoàn 8), Mãnh Hổ (tiểu đoàn 9). Biệt động quân có biệt hiệu “Cọp ba đầu rằn”, Không quân có các phi đoàn Thần Phong, Thần Tượng, Song Chùy, Phi Hổ, Hổ Cáp, Thiên Lôi, Hỏa Long, Phượng Hoàng
Quân lực VNCH có một số cơ sở đào tạo và huấn luyện. Đứng đầu là Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt, đào tạo những thanh niên tình nguyện trở thành sĩ quan hiện dịch ra trường với cấp bậc Thiếu úy. Khi mới thành lập năm 1948, thời gian huấn luyện tại trường chỉ kéo dài 9 tháng. Năm 1957 tăng lên thành 12 tháng rồi đến năm 1961 là 2 năm.
Đến giữa thập niên 1960, khóa học của Trường Võ bị Đà Lạt là chương trình 3 năm, từ năm 1966 trở đi lại tăng lên 4 năm. Học trình lúc đầu tương đương với trường cao đẳng. Sinh viên mãn khóa được miễn thi nhập học vào trường đại học vì coi như hoàn tất bằng tú tài toàn phần (gồn Phần I, lớp Đệ nhị và Phần II, lớp Đệ nhất). Đến năm 1966, sinh viên tốt nghiệp Trường Võ Bị có văn bằng tương đương với bằng cử nhân khoa học. Hai năm đầu sinh viên mang cấp bậc trung sĩ, hai năm sau là chuẩn úy. Sinh viên học xong 4 năm thì tốt nghiệp với cấp thiếu úy.
Khóa học bao gồm những môn vũ khí, truyền tin, tác chiến, kết hợp lý thuyết với thực hành. Theo truyền thống, để được gắn Alpha, khóa sinh sau những tuần huấn nhục phải leo lên ngọn Lang Biang để nhận phù hiệu trên đỉnh ngọn núi cao nhất Đà Lạt.
Trường Võ bị Quốc gia lấy Học viện West Point của Hoa Kỳ làm mẫu mực. Hai năm đầu chương trình học cho các sinh viên đều giống nhau. Bắt đầu từ năm thứ ba trở đi thì tách ra ba quân chủng riêng biệt, trong đó 1/8 thuộc Không quân, 1/8 thuộc Hải quân và 3/4 thuộc Lục quân.
 
Trường Võ bị Quốc gia
 
Năm 1965, quân lực VNCH tiếp nhận khái niệm và cơ cấu Chiến Tranh Chính Trị (CTCT) khi đó được áp dụng trong Quân đội Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan). Tổng cục CTCT được tổ chức thành 5 cục bao gồm Cục chính huấn, Cục tâm lý chiến, Cục xã hội, Cục an ninh quân đội, Cục quân tiếp vụ và một trường Ðại học Chiến Tranh Chính Trị cũng đặt tại Đà Lạt. Tại đây, sinh viên phải qua một chương trình huấn luyện 2 năm để trở thành Thiếu úy hiện dịch. Chương trình học nhấn mạnh về khoa học xã hội và chính trị. Sinh viên phải học quân sự hàng năm tại Trường Võ bị Quốc gia để có thể chỉ huy một trung đội bộ binh với đầy đủ kiến thức về chiến thuật, chiến lược. Bên cạnh đó là việc học những kiến thức chuyên môn tại trường để trở thành sĩ quan chiến tranh chính trị
 
Sinh viên Sĩ quan Đại học Chiến tranh Chính trị
 
Trường Bộ binh Thủ Đức là nơi tập họp các thanh niên có bằng Tú tài Phần I trở lên (lớp Đệ nhị) bị động viên vào quân ngũ để được đào tạo trở thành sĩ quan trừ bị và ra trường với cấp bậc Chuẩn úy. Trong suốt thời gian hoạt động 1953-1975, trường Thủ Đức đã đào tạo hơn 80.000 sĩ quan trong đó khoảng 4.000 sĩ quan đặc biệt là những hạ sĩ quan được đặc cách đi học lớp sĩ quan. “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu” và “Cư An Tư Nguy” (Muốn sống hòa bình phải nghĩ đến chiến tranh) là những châm ngôn của Trường.
Trường Bộ binh Thủ Đức là nơi tôi đã từng trải qua với vô vàn kỷ niệm, vui cũng như buồn rất khó quên. Bò hỏa lực, đoạn đường chiến binh, leo dây tử thần, hít đất, thụt dầu, phạt dã chiến là những món “ăn chơi” không thể thiếu trong thời gian “huấn nhục” của người chiến binh. Vui nhất phải kể đến những lần về phép cuối tuần tại Sài Gòn nếu không có lệnh “cấm trại 100%”.
Người ta thường gọi sinh viên sĩ quan Thủ Đức chúng tôi là “lính con cá” vì trên cầu vai không có lon mà chỉ có chữ Alpha tựa như hình con cá! Phải đợi đến khi tốt nghiệp ra trường mới được đeo lon Chuẩn úy (Omega). Trường Bộ binh Thủ Đức có “khu bưu chính” (KBC) mang số hiệu 4100, con số 4100 (bốn ngàn một trăm) được sinh viên chúng tôi đọc trại thành “bốn người một mâm”… chả là vì mỗi khi lên “nhà bàn” ăn cơm thì cứ bốn người ngồi chung một carrée! 
 
Sinh viên sĩ quan Thủ Đức
 
Tại Sài Gòn còn có Trung tâm Huấn luyện Quang Trung chuyên đào tạo binh sĩ cho các đơn vị tác chiến khắp “bốn vùng chiến thuật”. Tôi cũng đã từng nếm mùi quân trường Quang Trung trước khi được chuyển sang Thủ Đức ở giai đoạn 2. Quang Trung có món “chà láng”: những lúc rảnh rỗi tất cả phải ra giao thông hào, dùng càmen bằng inox để chà đất cho thật láng! Một việc làm “vô bổ” nhưng lại có tác dụng khiến cho những thanh niên mới khoác áo lính phải bận rộn, không còn thì giờ rảnh rỗi để nhớ nhà, nhớ cuộc đời dân sự.
Trường Huấn luyện Không quân, Trường Sĩ quan Hải quân Trường Hạ sĩ quan (tốt nghiệp với cấp bậc Trung sĩ, thường được gọi là Trường Đồng Đế) tất cả đều ở Nha Trang, “miền quê hương cát trắng”. Trường Thiếu sinh quân đặt tại Vũng Tàu, ưu tiên cho các con em tử sĩ. Còn một số trung tâm huấn luyện chuyên môn cho các quân binh chủng như Pháo binh, Công binh, Quân cụ, Quân khuyển, Quân y, Truyền tin… đặt tại các địa phương trên cả nước. 
Sẽ là điều bất công nếu không nói về Đoàn Nữ Quân Nhân, “những bông hồng trong bộ đồ lính” hay nói một cách thi vị hơn: “Hoa lạc giữa rừng gươm”. Trưởng Đoàn Nữ Quân Nhân đầu tiên là nữ Đại tá Trần Cẩm Hương, ái nữ của kỹ sư Trần Văn Mẹo – Tổng trưởng Công chánh thời Đệ Nhất Cộng Hòa.
Nữ quân nhân hiện diện tại các đơn vị quân đội với quân phục tác chiến ở tiền phương hoặc với đồng phục màu xanh tại các đơn vị tham mưu. Họ có mặt trong mọi binh chủng và ngành chuyên môn trong quân lực và vào thời điểm “leo thang chiến tranh”, quân số của Đoàn Nữ Quân Nhân lên tới xấp xỉ 10.000 người.  
Trường Nữ Quân Nhân nằm trên đường Nguyễn Văn Thoại (ngày nay là Lý Thường Kiệt), giữa Trường đua Phú Thọ và Chợ Tân Bình. Trường được thành lập từ giữa thập niên 1960 và đặt dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hồ Thị Vẽ từ ngày đầu tiên cho đến ngày cuối cùng, 30/4/1975.
Một nữ quân nhân xuất thân từ Trường Nữ Quân Nhân chưa có đủ chuyên môn để phục vụ các đơn vị, nên thường phải trải qua một thời gian huấn luyện nữa, như ngành quân y, học tiếp ở Trường Quân Y để trở thành một y tá lành nghề. Tùy theo trình độ văn hóa, người nữ quân nhân có thể phục vụ trong quân đội như “lính trơn”, hạ sĩ quan hay sĩ quan. 
Ngoài ra còn có Trường Xã Hội Quân Đội thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị, tọa lạc trong Trại Lê Văn Duyệt, nơi đặt bản doanh Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô nằm trên đường Lê Văn Duyệt (ngày nay là Cách mạng tháng 8). Trường Xã Hội Quân Đội còn đào tạo và huấn luyện những cô giáo nhà trẻ mẫu giáo để phục vụ tại các trung tâm, trường học ở khu gia binh thuộc quyền điều hành của quân đội. Trường Sinh ngữ Quân đội nơi tôi giảng dậy cũng có một nhà trẻ dành cho con em của các giảng viên và do nữ quân nhân phụ trách.
Người có cấp bậc cao nhất trong Đoàn nữ quân nhân là Đại tá Trần Cẩm Hương, xuất thân từ ngành Nữ trợ tá xã hội. Khi Đại tá Cẩm Hương giải ngũ về hưu, Trung tá Lưu Thị Huỳnh Mai lên nắm quyền Chỉ huy trưởng. Ngoài ra còn có những nữ Trung Tá thâm niên quân vụ và cấp bậc như Nguyễn Thị Hằng, Hồ Thị Vẽ, Nguyễn Thị Hạnh Nhơn. Cấp bậc Thiếu tá có khoảng trên dưới mười người trong quân lực VNCH.
 
Đoàn Nữ Quân Nhân diễu hành trong Ngày Quân Lực
 
Lực lượng quân đội VNCH có đến 11 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn nhảy dù, 1 sư đoàn thủy quân lục chiến, Liên đoàn 81 Biệt cách dù, 21 liên đoàn biệt động quân, 4 lữ đoàn Kỵ binh thiết giáp, Lực lượng Lôi HổBiệt Hải thuộc Nha Kỹ thuật, các đơn vị Pháo binh biệt lập và lực lượng Địa phương quân gồm 400 tiểu đoàn, nghĩa quân hơn 50.000 quân.
Lực lượng Không quân có quân số khoảng 60.000 người. Chỉ huy trực tiếp là Bộ tư lệnh Không quân với đầy đủ các cơ quan yểm trợ. Binh chủng bao gồm 5 Sư đoàn không quân tác chiến trong đó có 20 Phi đoàn khu trục cơ (khoảng 550 phi cơ A-1H, A-37 và F-5); 23 Phi đoàn trực thăng (khoảng 1.000 phi cơ UH-1 và CH-47); 8 Phi đoàn quan sát (khoảng 200 phi cơ O1, O2 và U17); 1 Sư đoàn vận tải (khoảng 150 phi cơ C7, C-47, C-119 và C-130); 1 Không đoàn tân trang chế tạo và 4 Phi đoàn Hỏa long (trang bị phi cơ AC-119, AC-130 Spectre Gunship). Ngoài ra còn có Phi đoàn Trắc giác (tình báo kỹ thuật), Phi đoàn Quan sát RC119L và Biệt đoàn Đặc vụ 314. Các phi công đều được đào tạo chuyên môn tại Hoa Kỳ sau thời gian học quân sự và ngoại ngữ ở trong nước.
Lực lượng Hải quân có quân số hơn 40.000 người, ngoài các đơn vị yểm trợ hành chánh, huấn luyện và tiếp vận còn bao gồm các lực lượng tác chiến: Hành quân lưu động sôngHành quân lưu động biển. Lực lượng Hải quân bao gồm tuần dương hạm (WHEC - White High Endurance Cuttert), hộ tống hạm (PCE - Patrol Craft Escort), khu trục hạm (DER - Destroyer Escort and Ricket), tuần duyên hạm (PGM - Patrol Gunboat Motor), giang pháo hạm (LSIL - Landing Ship Infantry Light), trợ chiến hạm (LSSL - Landing Ship Support Large), dương vận hạm (LST - Landing Ship Tank), hải vận hạm (LSM - Landing Ship Medium) và giang vận hạm (LCU - Landing Craft Utility).
Hải quân còn có các Lực lượng đặc nhiệm 211 thủy bộLiên đoàn Người nhái. Tổng cộng được trang bị khoảng 1.500 tàu xuồng các loại, trong đó có khoảng 700 tàu chiến trên sông và trên biển. Nổi tiếng nhất trong số đó là Liên đoàn Người nhái với hai tướng Dã Tượng và Yết Kiêu được tôn vinh là Thánh tổ của đơn vị. “Người nhái” là những thanh niên gan dạ, có đầy đủ sức khỏe để thực hiện những “hải vụ” bí mật trên sông và trên biển.     
Những con số vừa nêu rõ ràng là nói lên sức mạnh hùng hậu của quân lực VNCH. Chỉ tiếc một điều, sức mạnh đó sẽ không là gì một khi đồng minh “đem con bỏ chợ” và hậu quả là ngày 30/4/1975.
Dưới đây là huy hiệu của các đơn vị quân lực VNCH do Đỗ Văn Phúc vẽ lại 
 
Huy hiệu 4 Quân đoàn và các Sư đoàn Bộ binh
 
 
Huy hiệu các quân binh chủng
 
 
Huy hiệu các lực lượng tổng trừ bị
 
 
Huy hiệu các quân trường
***