Thứ Tư, 7 tháng 11, 2012

Tướng Trần Văn Đôn: Chuyên gia trở cờ

http://www.tintuchangngay.org/2012/11/tuong-tran-van-on-chuyen-gia-tro-co.html


Người đã một lần phản chủ thì rất có thể sẽ phản chủ thêm nhiều lần khác nữa. Trần Văn Đôn chính là một người như thế.
Trong cái gọi là  "biên niên sử" của chế độ Sài Gòn, Trần Văn Đôn cũng bị xếp vào loại "bẩn tướng" như Trung tướng Đặng Văn Quang (xem ANTG CT số tháng 1/2008). Trả lời câu hỏi: Tướng nào giỏi đóng tuồng và chuyên "trở cờ"?", ông Quách Tòng Đức, người từng làm Đổng lý Văn phòng cho Tổng thống Ngô Đình Diệm và đã nhìn thấy quá nhiều tấn trò nhem nhuốc trên sân khấu chính trị Sài Gòn một thuở đã khẳng định ngay: "Đó là Trần Văn Đôn!".
Kỳ nhông đặc biệt
Gia tộc Trần Văn Đôn là đại điền chủ ở Nam Bộ. Cha của ông ta sang Pháp học y khoa và Trần Văn Đôn đã được sinh ra tại Cauderan, Bordeaux ngày 19/8/1917.
Trong gia tộc mang quốc tịch và thấm nhuần sâu sắc tư tưởng thờ Pháp này, Trần Văn Đôn là người con út. Lớn lên, ông ta được gia đình cho sang Pháp để du học.
Năm 1939, Trần Văn Đôn tốt nghiệp Trường Thương mại cao cấp Hautes Etudes Commerciales (HEC) ở Paris. Tiếp đó, ông ta gia nhập quân đội Pháp khi chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu và theo học Trường Quân sự đặc biệt Saint Cyr (École spéciale militaire de Saint-Cyr). Rồi Trần Văn Đôn trở lại Việt Nam, cầm súng cho Pháp chống lại cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Ông ta từng là sĩ quan tình báo.
Tới năm 1955, Trần Văn Đôn đã đeo quân hàm đại tá. Cùng với Dương Văn Minh (lúc đó cũng mới là đại tá), Trần Văn Đôn đã phò tá Ngô Đình Diệm trong những nỗ lực thâu tóm quyền lực ở miền Nam với sự hậu thuẫn của Mỹ. Sau khi góp tay dẹp những lực lượng chống đối Ngô Đình Diệm, cả Trần Văn Đôn và Dương Văn Minh đã được đeo quân hàm tướng của chế độ Sài Gòn.
Tướng Trần Văn Đôn và cuộc di tản tháng 4/1975
Năm 1956, tướng Trần Văn Đôn còn được giao cho chức Tổng Tham mưu trưởng của quân đội Sài Gòn. Để có thể ngồi trên vị trí cũng vào loại chóp bu này, Trần Văn Đôn đã công khai bày trò đốt quốc tịch Pháp của mình, không ngại mang tiếng ăn cháo đái bát.
Tổng thống Ngô Đình Diệm đã rất hài lòng với sự trở cờ đó của Trần Văn Đôn. Tuy nhiên, cho tới cuối đời, Trần Văn Đôn vẫn bị dư luận Sài Gòn coi là một anh Tây con, ăn chơi đàng điếm. "Dấu ấn của quỷ" gắn lên trán ông ta từ thời trẻ đã không bao giờ mờ phai.
Người đã một lần phản chủ thì rất có thể sẽ phản chủ thêm nhiều lần khác nữa. Trần Văn Đôn chính là một người như thế. Ông ta cùng với Dương Văn Minh và Tôn Thất Đính chính là những nhân vật trụ cột trong âm mưu đảo chính năm 1963 hạ bệ Ngô Đình Diệm với sự hậu thuẫn của các điệp viên CIA.
Cùng chung tay vào cuộc chính biến khá đẫm máu này còn có những viên tướng Sài Gòn như Mai Hữu Xuân, Lê Kim Xuân (người anh em đồng hao với Trần Văn Đôn) và cả Đỗ Mậu…
Tuy nhiên, khác với nhiều đồng sự từng cùng dính líu với vụ đảo chính năm 1963 (họ thường là bị đẩy ra ngoài cuộc rất nhanh chóng và phải tìm nơi dung thân ở hải ngoại), tướng Trần Văn Đôn đã đổi màu như kỳ nhông rất kịp thời và không bao giờ bị mất phần béo bở. Và ông ta đã trụ được trong bộ máy chính quyền Sài Gòn cho tới khi chế độ này sụp đổ tháng 4/1975, khi ông ta buộc phải vội vã bỏ tổ quốc cứu mạng sống cá nhân trên một chiếc trực thăng của Mỹ. Trong nội các cuối cùng của chế độ Sài Gòn, Trần Văn Đôn từng được giữ ghế Phó Thủ tướng và Bộ trưởng Quốc phòng.
Dấu tích ô danh
Nguyễn Văn Ngân, phụ tá tin cẩn một thời của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, khi được yêu cầu nói lên sự đánh giá của mình đối với các tướng lĩnh của chế độ Sài Gòn, đã chua chát và gay gắt nói: "Hầu hết các tướng lĩnh đều thoát thai từ một môi trường xấu, nguyên phục vụ trong những đội quân phụ thuộc của quân đội viễn chinh Pháp, là những đội quân thiếu truyền thống. Họ không có lý tưởng chính trị và cũng không có lương tâm trách nhiệm của một người lính chuyên nghiệp.
Vì không thể tiến thân bằng con đường học vấn nên họ đã phải vào quân đội để kiếm sống. Do sự bành trướng của quân đội nên họ được thăng cấp rất nhanh nhưng thiếu kinh nghiệm chiến trường, không biết hoặc không cần biết tới nghệ thuật lãnh đạo, chỉ huy. Đa số đều tham nhũng, nuôi dưỡng tình trạng lính ma, lính kiểng, đã làm băng hoại cả một quân đội...".
Trần Văn Đôn cũng là một trong những viên tướng như thế. Ông ta từng chịu nhiều ân huệ của chế độ Ngô Đình Diệm. Khi tướng Lê Văn Tỵ bị ung thư phổi phải sang Mỹ chữa trị, Trần Văn Đôn, lúc đó là Tư lệnh Lục quân, đã được Ngô Đình Diệm cho giữ chức Quyền Tổng Tham mưu trưởng thay ông này từ ngày 27/7/1963.
Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau đó, khi gió đã đổi chiều, ông ta không ngại tham gia những hoạt động chống lại anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu, mặc dù trong thâm tâm, ông ta có thể chưa chắc đã muốn cho hai người này phải chết bất đắc kỳ tử như đã xảy ra.
Vụ đảo chính bắt đầu từ ngày 1/11/1963. Vào lúc 13h30’ ngày hôm đó, một số sĩ quan cao cấp của chế độ Sài Gòn được mời tới tham dự một cuộc họp tại một sở chỉ huy ở gần sân bay Tân Sơn Nhất. Tại đây, tướng Trần Văn Đôn đã thông báo về việc cái gọi là Hội đồng cách mạng quân sự đã lên nắm quyền.
Mọi thành viên tham gia cuộc họp đều tỏ ra phấn khởi, duy chỉ có viên Đại tá Lê Quang Tung, Tư lệnh Lực lượng đặc biệt, người rất thân cận và trung thành với gia tộc Ngô Đình và vì thế, đã bị đại sứ Mỹ ở Sài Gòn lúc đó là Henry Cabot Lodge ra lệnh cho những viên tướng lãnh đạo đảo chính cho tên vào danh sách cần bị thủ tiêu, đã không đứng dậy vỗ tay hoan hô thông báo này. Lập tức đại tá Tung bị bắt giữ và bị Nguyễn Văn Nhung (khi đó là đại úy) đưa sang một căn phòng khác ở trong sở chỉ huy này,
Mặc dầu thất thế nhưng Tung vẫn hét to được một câu: "Hãy nhớ ai đã gắn sao cho tụi bay!". Đêm hôm đó, Nguyễn Văn Nhung chở đại tá Tung và người em của ông ta là Thiếu tá Lê Quang Triệu đến một nơi bên ngoài doanh trại và bắn chết cả hai.
Sáng hôm sau, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu chạy thoát khỏi Dinh Độc Lập qua một đường hầm bí mật và trốn ở một ngôi nhà tại Chợ Lớn. Trần Văn Đôn bằng các mối quan hệ riêng đã liên lạc được với anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu, hứa sẽ bảo toàn mạng sống cho họ và để họ đi ra nước ngoài một cách an toàn nếu họ thuận tình trao quyền một cách yên ả cho những viên tướng làm đảo chính.
Tuy nhiên, mọi sự lại không diễn ra theo hướng này. Viên đại uý Nguyễn Văn Nhung đã dẫn một toán sỹ quan cùng lính tráng đến nơi trú ẩn của anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu tại Nhà thờ St. Francis được xây thời Pháp và bắt giữ họ. Một đoàn xe gồm một xe bọc thép M-113 và 4 chiếc xe Jeep cùng nhiều binh lính do tướng Mai Hữu Xuân cầm đầu đã tức tốc tới nơi anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu đang bị bắt giữ.
Đại uý Nguyễn Văn Nhung và Thiếu tá Dương Hữu Nghĩa ngồi chung với anh em Ngô Đình Diệm trong chiếc xe bọc thép quay lại Sài Gòn. Khi đoàn xe dừng lại tại một điểm giao cắt với đường sắt thì thấy, anh em họ Ngô đã bị giết chết trước đó. Theo hồi ký của Trần Văn Đôn, thì một cuộc điều tra do ông ta ra lệnh tiến hành đã xác định rằng chính Dương Hữu Nghĩa đã bắn anh em họ Ngô bằng một phát đạn súng bán tự động, còn Nguyễn Văn Nhung đã bắn hàng loạt đạn khắp thân thể hai anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu. Nguyễn Văn Nhung cũng là người đã đâm nhiều nhát dao vào thân thể hai anh em họ Ngô (sau "chiến tích" này, Nguyễn Văn Nhung được thăng lên cấp thiếu tá nhưng rồi y cũng bị thủ tiêu bởi một phát súng bắn vào sau gáy).
Theo lời Trần Văn Đôn kể lại sau này, ông ta cùng nhiều sỹ quan khác đã kinh ngạc khi thấy xác hai anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu tại sở chỉ huy của lực lượng đảo chính. Trần Văn Đôn tức tốc gặp Dương Văn Minh trong văn phòng của ông này và to tiếng về cái chết của hai anh em họ Ngô. Trong lúc họ đang cãi nhau, Mai Hữu Xuân đi vào phòng, đứng nghiêm trước Dương Văn Minh và báo cáo: "Mission accomplie" (nhiệm vụ đã hoàn thành)!
Tướng Trần Văn Đôn về sau đã tốn khá nhiều công sức để thanh minh về trách nhiệm của ông ta đối với cái chết thê thảm của anh em họ Ngô. Trần Văn Đôn cũng tiết lộ rằng CIA đã chi cho các viên tướng chủ trì đảo chính 42 nghìn USD để họ hạ sát anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu.
Còn theo thông tin của ông Nguyễn Văn Ngân, trong cuộc đảo chính tháng 11/1963, CIA cũng đã sử dụng Trần Văn Đôn, mặc dù không tin con người tráo trở này chỉ vì lý do đơn giản là lúc đó, Trần Văn Đôn đang giữ chức vụ quyền Tổng tham mưu trưởng thay tướng Lê  Văn Tỵ đang đi Mỹ trị ung thư (không có được sự đồng ý của nhân vật này khó có thể điều hành được các đơn vị quân đội một cách suôn sẻ).
Và các quan thầy Mỹ cũng đã loại Trần Văn Đôn khỏi vị trí quan trọng trên trong vụ chỉnh lý ngày 30/1/1964. Tuy nhiên, với sự khéo léo của một kẻ hoạt đầu, sau đó Trần Văn Đôn đã lấy lòng được Nguyễn Văn Thiệu và được viên Tổng thống này trọng dụng cho tới khi chính ông ta cũng phải ê chề bỏ nước ra đi vì thất thế.
Sau này ở hải ngoại, trong các bài trả lời phỏng vấn với báo chí và trong các tập hồi ký của mình, Trần Văn Đôn đã không tiếc lời phê phán Nguyễn Văn Thiệu cũng như các chiến hữu cũ, đổ cho họ phần lớn trách nhiệm về những chuyện xấu xa và đổ vỡ của chế độ Sài Gòn
 
 

Thứ Hai, 5 tháng 11, 2012

Bài học yêu nước qua tấm gương Ngô Đình Diệm

http://danlambaovn.blogspot.com/2012/11/bai-hoc-yeu-nuoc-qua-tam-guong-ngo-inh.html#.UJbR-GeqDKQ


Nguyễn Hội (Danlambao) - Trong buổi thuyết trình với Sinh viên cao học khoa Quản trị kinh doanh của trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội, một sinh viên đặt câu hỏi "tại sao nước Đức đã phát triển một cách nhanh chóng và trở thành nước giàu nhất Âu châu mặc dù đất nước họ bị tàn phá nặng nề sau thế chiến thứ hai?". Người viết đã trả lời rằng "trong những thập niên gần đây những quốc gia phát triển nổi bật là Nhật, Đức, Hàn quốc, Do Thái và Đài Loan. Đặc tính rõ rệt chung của 5 dân tộc này là lòng yêu nước và tự hào Dân tộc. Một thí dụ nhỏ là khi sản xuất một cái muỗng (thìa) mang tên nước họ, vì tính tự hào Dân tộc họ cố sức sản xuất cái muỗng (thìa) với chất lượng cao nhất để xuất cảng ra nước ngoài để người tiêu dùng nể nang Dân tộc họ. Do đó sản phẩm của họ được mua nhiều và đất nước họ được phát triển".
Trong hai bài "Thời nào Dân Việt sướng nhất?" người viết đã so sánh mức lương người dân trong các thời đệ nhất, đệ nhị Cộng hòa với mức lương người dân Việt vào năm 2006 là năm có thể nói là sung túc nhất của thời kỳ XHCN trước khi xảy ra những cuộc khủng hoảng liên tục từ năm 2008. Kết quả cuộc so sánh là người dân trong thời đệ nhất Cộng hòa có mức lương cao nhất mặc dù tài chánh hỗ trợ từ nước ngoài vào nước ta thời đấy thấp nhất. 
Tại sao thời đệ nhất Cộng hòa người dân sống sướng hơn thời nay mặc dù chế độ đó đã chấm dứt trước đây 49 năm? Chẳng lẽ người dân Việt thời bấy, theo logic được trên đây, yêu nước hơn các thời kỳ về sau? Việc chứng minh lòng yêu nước của người dân Việt thời bấy giờ rất khó khăn, chúng ta cùng lật lại những trang sử để cùng xem xét lòng yêu nước của lãnh tụ thời đó đại diện qua Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ của ông. 
Trong bài nhận xét ngắn này, chúng ta cùng tìm hiểu thân thế của Tổng thống Diệm là nền tảng hun đúc con người và cũng là nền tảng cho mọi quyết định hành động của ông. Sau đó chúng ta cùng xem xét một số tình huống ông giải quyết trên nền tảng quyền lợi đất nước hay quyền lợi bản thân? 
Thân thế 
Thân sinh của Tổng thống Ngô Đình Diệm là cụ Ngô Đình Khả, người đã sáng lập trường Quốc Học Huế là ngôi trường đầu tiên tại Việt Nam dậy theo chương trình Đông và Tây, và làm tới chức Thượng Thư Phụ Đạo Đại Thần thời Vua Thành Thái. Cụ Khả là bạn thân của các nhà cách mạng nổi danh thời đó như các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để. Do mưu toan một cuộc cách mạng ôn hòa của Vua Thành Thái bị bại lộ, thực dân Pháp gán cho nhà Vua chứng bịnh điên, ép các quan trong triều đình ký sớ xin Vua thoái vị rồi đưa đi an trí ở Phi châu. Riêng chỉ có một mình cụ Ngô Đình Khả không ký, sau đó cụ từ quan và bị thực dân Pháp cho tước mọi quyền lợi, bổng lộc. Gia đình cụ sống rất khó khăn, cảm phục khí phách của đồng liêu, cụ Tôn Thất Hân đã ngần giúp cụ Khả mỗi tháng 10 đồng để chi dùng. (1) 
Ngoài người cha ruột ông Diệm còn có một cha đỡ đầu đã đóng góp rất nhiều trong việc giáo dục tinh thần ông là Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài. Khi người Pháp tham lam muốn đào mả Vua Tự Đức để lấy của thì Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài là người duy nhất trong triều đình chống đối. Cho nên dân chúng miền Trung kính trọng khí tiết của hai cụ đã truyền tụng với nhau rằng: "Đày Vua không Khả, đào mả không Bài". 
LM Trần Quý Thiện đã mô tả nền giáo dục mà TT Diệm đã được hấp thụ như sau: 
"Ngoài việc hấp thụ những đức tính cao đẹp và lòng yêu nước nồng nàn của thân phụ và nghĩa phụ, cậu Diệm còn chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền giáo dục Nho Giáo và Thiên Chúa Giáo. Thực vậy, nếu Nho Giáo đã hun đúc ông Diệm thành một con người thanh liêm, tiết tháo và cương trực thì nền giáo dục Thiên Chúa Giáo đã đào tạo ông Diệm thành một con người đày lòng bác ái, vị tha và công chính." (2)
Trước khi lìa đời, cụ Khả căn dặn ông Diệm rằng: 
"Diệm con có đủ đức tính cần thiết để trở thành người lãnh đạo tốt, con phải lãnh đạo."
và cụ nói với các con: 
"Các con phải cùng với nó (ông Diệm) dành lại nền độc lập hoàn toàn, thì mới thực hiện được công cuộc cải tạo xã hội, xóa bỏ bất công được". 
Tất cả các con cụ đã thề sẽ cùng với ông Diệm thực hiện bằng được ước nguyện của cụ. (3)
Khi Vua Bảo Đại lên ngôi vào năm 1932, nhà Vua đã mời ông Ngô Đình Diệm lúc đó là Tuần vũ Phan Thiết làm Thượng Thư Bộ Lại (Thủ tướng). Trong chức vụ quan trọng này ông đề xướng hai điều với chính quyền bảo bộ Pháp: một là thống nhất Trung và Bắc Kỳ theo Hòa ước Giáp Thân 1884 và hai là cho Viện Nhân dân Đại biểu Trung Kỳ được quyền tự do thảo luận mọi vấn đề. Vì không được toàn quyền Pháp Pasquier chấp nhận, ông từ chức ngày 12 tháng 7 năm 1933. (4)
Ông Diệm trở về sống tại nhà của thân sinh gần Huế và đi dạy học Thiên Hựu (Providence). Ông từ chối mọi sự mời mọc của Nhật, Việt Minh, Bảo Đại và không tham gia vào bất cứ chính quyền nào lập sau Đệ Nhị Thế Chiến. Có một lần ông bị Việt Minh bắt và giải đến Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh mời ông tham gia chính phủ nắm bộ nội vụ nhưng ông từ chối. 
Năm 1951, ông Diệm qua Mỹ sống phần lớn trong các chủng viện Maryknall, Lakewood, Ossining và đi vòng quanh nước Mỹ để vận động độc lập cho Việt Nam. Tháng 5 năm 1953 ông sang Pháp, Bỉ. Tháng 6 năm 1954 ông nhận lời mời của Quốc trưởng Bảo Đại trở về Việt Nam làm Thủ tướng. 
Giáo hội ở trong quốc gia chứ không phải quốc gia ở trong giáo hội 
Dưới thời Pháp các chủng viện Công giáo không chịu ảnh hưởng, kiểm soát bởi chính quyền. Vào năm 1958/59 Tổng thống Ngô Đình Diệm cho thay đổi luật Chủng viện Công giáo, điều luật mới xếp hệ thống giáo dục Chủng viện Công giáo tương đương với các trường tư thục, dưới sự chi phối của Nha Tư thục. Hàng giáo phẩn Công giáo coi đây là một cưỡng chế tự do tôn giáo. Các Linh mục nhiều địa phận đồng loạt đứng lên phản đối. Đức Khâm sứ Tòa thánh trực tiếp can thiệp nhưng Tổng Thống Diệm nhất định không thay đổi. Một số Linh mục xin vào yết kiến, Tổng thống nghe xong rồi trả lời rất ngắn ngủi "Giáo hội ở trong quốc gia chứ không phải quốc gia ở trong giáo hội." (5) 
Chủ quyền quốc gia, quyền lợi Tổ quốc là trên hết 
Năm 1961 cộng sản gia tăng khủng bố nên Tổng thống Diệm cần phải tăng cường quân đội. Hoa kỳ cũng cho tăng viện trợ quân sự và lợi dụng tình thế họ đòi hỏi Tổng Thống Diệm phải cải cách, "biến miền Nam Việt Nam thành một chế độ chính trị dân chủ theo kiểu Mỹ và để người Mỹ đồng cai trị miền Nam." (6). Đòi hỏi này Tổng Thống Diệm không chấp thuận và đề nghị chính phủ Mỹ ký kết với Việt Nam một hiệp nghị phòng thủ song phương tương tự như Mỹ đã ký kết với Đại Hàn nhưng không được Tổng Thống Kennedy đáp ứng. Một số chính khách Mỹ, trong đó có Đại sứ Elbridge Durbrow với chủ trương cứng rắn là buộc Tổng Thống Diệm chấp nhận đề nghị cải cách của Mỹ. Nếu không thì lật đổ ông và kiếm người thay thế. 
Có lần ông Nhu đặt câu hỏi với ông John Mecklin, một người Mỹ có chủ trương lật đổ TT Diệm, Giám đốc sở báo chí Hoa Kỳ kiêm phát ngôn viên tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, tại sao chính phủ Mỹ không giúp Việt Nam như kiểu giúp Tito ở Nam Tư là viện trợ vật chất nhưng không xâm phạm vào hiện tình của xứ được giúp đỡ? Qua cuốn sách của ông John Meklin được xuất bản vào năm 1965 mang tựa đề "Mission in torment: an intimate account of the U.S. role in Vietnam" (Sứ mệnh trong đau khổ: một mật báo về vai trò của Mỹ tại Việt Nam) đòi hỏi cải cách của Mỹ được nêu trên dẫn đến việc thành lập một chính quyền trong bóng tối thuộc Tòa Đại sứ Mỹ, nhiệm vụ của chính quyền trong bóng tối này là xét những việc cần làm sau đó đốc thúc chính quyền miền Nam Việt thi hành. 
Đại úy Lê Châu Lộc cho biết trước khi tiếp xúc với Đô đốc Felt vào năm 1962, Tổng thống Diệm rất đăm chiêu, đọc kỹ nhiều tài liệu và thảo luận với rất nhiều người. Trong phần người Mỹ muốn đưa quân vào tham chiến tại Việt Nam, Tổng thống Diệm đã nói với Đô đốc Felt với đại ý như sau: 
"Trong cuộc chiến đấu chống lại Cộng sản quốc tế chúng tôi cần sự giúp đỡ. Ngó quanh khắp thế giới không ai có thể giúp chúng tôi, ngoài người Mỹ. Nhưng cuộc chiến này tế nhị lắm! không chỉ thuần túy giao tranh bằng súng đạn, mà có cả chiến tranh tâm lý, có công tác tuyên truyền. Chúng tôi vừa mới đuổi được người Pháp đi sau bao nhiêu năm chúng tôi chịu sự đô hộ của họ. Nếu bây giờ người Mỹ lại tới đây, hiện diện trên đất nước tôi bằng những đạo quân tác chiến. Người dân Nông thôn vốn chất phác, họ sẽ nghĩ rằng người Mỹ đến đây cũng chẳng khác chi người Pháp trước kia. Như thế tôi biết làm sao giải thích cho đồng bào tôi hiểu. Vì dân tôi rất nặng lòng với nền độc lập, không muốn chủ quyền bị xâm phạm… Tôi mong rằng người Mỹ hiểu cho tôi. Vì nếu tôi chấp nhận cho quân đội tác chiến Mỹ ở đây, tôi nói làm sao với dân tôi bây giờ?" (7) 
Trong cuộc đi viếng vùng Tràm chim với Tổng Thống Diệm và một số Bộ trưởng, Đại sứ Nolting có dò ý yêu cầu chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho Mỹ sử dụng căn cứ Cam Ranh, tháng 3.1963 đại tướng Harkins lại ngỏ ý qua ngã tướng Khánh, nhưng Tổng Thống Diệm đều từ chối. (8)
Tháng 10 năm 1963 nhân dịp về thăm nhà tại Huế Tổng Thống Diệm đã hàn thuyên rất lâu với cụ Võ Như Nguyện, một cựu cộng sự viên thân tín mà Tổng Thống Diệm đã quen biết từ thuở ông thường đi lại với cụ Phan Bội Châu. Tổng thống cho cụ Nguyện biết mưu toan của Mỹ muốn làm cuộc đảo chánh và nguy hiểm đang chờ ông: 
"Sẽ nguy hiểm lắm! Mỹ sẽ chơi sỏ tôi. Nếu tôi accepted (chấp nhận) những chuyện của hắn (thay đổi cho Mỹ đem quân vào Việt Nam) thì yên, nhưng còn chi uy tín của Tổng Thống, còn chi uy tín của nước Việt Nam." (9)
Trong quyển "Bên giòng lịch sử" Linh mục Cao Văn Luận đã viết lại cuộc gặp gỡ của ông với TT Diệm vào tháng 10,1963, sau cuộc viễn du Hoa kỳ ông đã đề nghị với TT Diệm: 
"Bây giờ, thưa cụ chúng ta cần người Mỹ, lệ thuộc nhiều vào người Mỹ, chịu ảnh hưởng nặng nề vì sự thương hay ghét của họ. Nếu không vì những lợi ích thiết thực mà phải cải tổ chính phủ, thì cũng nên vì để làm hài lòng người Mỹ mà cải tổ, để họ khỏi phá hoại. Cụ cũng đã hiểu câu châm ngôn “ai chi tiền thì kẻ đó cai trị”. Hiện nay người Mỹ đang chi tiền. Nếu cụ cứng rắn quá sẽ bị bẻ gãy. 

Ông Diệm có dáng suy nghĩ, lo lắng, chú ý hơn lúc đầu một chút: 

- Nếu bây giờ chúng ta nhượng bộ Mỹ một bước thì Mỹ sẽ đòi thêm, biết nhượng bộ đến bao giờ cho vừa lòng họ? Tôi muốn võ trang cho Bảo An, Dân Vệ, Thanh niên Chiến Đấu, Mỹ không chịu. Tôi muốn tăng cường quân đội, Mỹ từ chối không chịu cấp vũ khí và phương tiện, Mỹ chỉ muốn đưa quân sang Việt Nam thôi". (10) 
Trân quý mạng sống người dân, mạng sống người lính 
4 giờ chiều ngày 01.11.1963 đại sứ Lodge lần thứ hai trong ngày gọi điện thoại nói chuyện với Tổng Thống Diệm, đề nghị anh em Tổng thống Diệm rời dinh Gia Long đến tỵ nạn tại Tòa đại sứ Mỹ và sau đó sẽ thu xếp để anh em ông xuất ngoại, nhưng Tổng thống Diệm đã từ chối. Đến 4:30 Tướng Đôn điện đàm cùng Tổng thống Diệm yêu cầu ông từ bỏ mọi quyền hành và xuất ngoại vì quân đội đã đứng lên đảo chánh và đã vây chặt thành Cộng Hòa cùng dinh Gia Long. Tổng thống Diệm nói như quát trong điện thoại "Quân mô? Vây ở mô?". Thực sự lực lượng đảo chánh không đáng kể. Sư đoàn 5 còn ở ngoài đô thành. Phú Lâm, Khánh Hội, Chợ Lớn, Cầu Chữ Y, Thị Nghè còn bỏ trống. Các Tướng lãnh tưởng rằng, khi đọc hiệu triệu trên đài phát thanh thì các cánh quân của Quân đoàn III (trong đó có sư đoàn 5) đã vây chặt thành Cộng Hòa và dinh Gia Long. Trên thực tế quân đảo chính còn rời rạc, lẻ tẻ, chưa vượt qua được cầu Phan Thanh Giản và cầu Thị Nghè vì bị Lữ Đoàn Phòng vệ Phủ Tổng Thống chận lại. (11) 
Đại Tá Duệ đã tường thuật rằng, ông được báo cáo từ nhiều nguồn cho biết phòng thủ ở Bộ Tổng tham mưu rất sơ sài chỉ có một số tân binh quân dịch ở Quang Trung lên tăng cường mà thôi nên ông đề nghị Tổng thống cho quân kéo lên đánh thẳng vào Bộ Tổng tham mưu bắt các Tướng.Tổng thống không đồng ý và ra lệnh qua sĩ quan tùy viên rằng (12): 
"Bảo Duệ đừng nóng nảy, Tổng Thống đang liên lạc với các tướng lãnh để cố tránh đổ máu."
Cụ Cao Xuân Vỹ lúc đó ở cạnh Tổng thống Diệm lên tiếng đồng ý với ý kiến của Đại tá Duệ bị Tổng thống Diệm lên tiếng trách: 
"Tôi là Tổng tư lệnh quân đội. Tôi lại ra lệnh cho quân đội đánh quân đội à? Tôi còn mặt mũi thấy quân đội nữa không? Có chi thì ngồi giải quyết, chứ quân đội là để chống Cộng, sao lại đem đánh nhau?" (13) 
Trong bài phỏng vấn với ông Minh Võ, cụ Cao Xuân Vỹ cho biết lúc đó không phải chỉ có Lữ đoàn Phòng vệ phủ Tổng thống xin lên tấn công mà còn đại đội Biệt kích thuộc Lực lượng Đặc biệt cũng báo cáo là phòng vệ các Tướng ở Bộ Tổng tham mưu rất yếu, xin được cùng 2 tiểu đoàn của Lữ đoàn Phòng vệ Phủ Thổng thống đột kích bắt sống các Tướng đảo chánh. Nhưng Tổng thống Diệm. 
Từ nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn, sáng ngày 02/11/1963 Tổng thống Diệm đã liên lạc với các Tướng đảo chánh và các Tướng đã cho xe "rước" Tổng thống và ông cố vấn Nhu về Bộ Tổng tham mưu. 
Theo tiết lộ của LM Jean, ông đã thuyết phục anh em Tổng thống Diệm không nên gặp các tướng đảo chánh, nhưng hai ông từ chối: (14) 
"Xin Tổng thống và ông Cố vấn nghĩ lại. Chính tôi sẽ dưa Tổng thống và ông Cố vấn đến một nơi an toàn nhất."
Tổng Thống Diệm: 
"Cảm ơn Cha, tôi thấy không có gì nguy hiểm cả. Cá nhân tôi đã dâng trọn cho Chúa và Mẹ Maria nhưng tôi vẫn còn là nguyên thủ quốc gia. Tôi còn trách nhiệm với dân." 
Tổng thống Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu bị các tướng đảo chánh mà Tổng thống Johnson gọi là "bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa" (a goddam bunch of thugs) ra lệnh giết chết trên chiếc xe M113 sau khi họ đón hai ông từ nhà thờ Cha Tam. 
Phản ứng sau cuộc sát hại TT Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu 
Khi được tin ông Diệm bị lật đổ, ông Hồ Chí Minh nói với ký giả cộng sản danh tiếng, Wilfrid Burchett: "Tôi không thể ngờ rằng tụi Mỹ ngu đến thế"
Nguyễn Hữu Thọ nói với báo Nhân Dân: "Sự lật đổ Diệm là một món quà mà Trời ban cho chúng tôi." 
Khi tướng Võ Nguyên Giáp và những đồng chí còn sống sót của ông gặp Ông McNamara ở Hà Nội tháng 11 năm 1995, họ nói rằng: "Chính sách Kennedy ở Việt Nam sai lầm hết chỗ nói. Ngô Đình Diệm là một người có tinh thần quốc gia, không khi nào ông chịu để cho người Mỹ dành quyền điều khiển chiến tranh, và sự người Mỹ dành quyền đã đưa người Mỹ đến thất bại đắt giá. Cho nên, kết quả của cuộc đảo chánh lật đổ ông Diệm năm 1963 là sự kết thúc sớm [sự hiện diện] Hoa Kỳ ở Việt Nam, một điều đáng làm cho người ta ngạc nhiên" (15)
Những người gần gũi Tổng thống giờ phút cuối kể lại cho họ hàng, bè bạn về cách hành xử của Tổng thống mặc dù cái chết bản thân mình đang cận kề, nhưng nhất quyết không để người khác phải đổ máu để bảo vệ bản thân ông. Nên dân chúng đã truyền nhau câu vè: 
"Đày Vua không Khả, 
 đào mả không Bài, 
 hại dân không Diệm"
Bài học từ Tổng thống Ngô Đình Diệm 
Lòng yêu nước, tinh thần Dân tộc là sợi dây chắc chắn nhất, bền bỉ nhất và chân thành nhất liên kết mọi con dân của Dân tộc.Vì sự liên kết đó dựa trên một nền tảng duy nhất là quyền lợi Dân tộc, Tổ quốc. Tổ quốc Việt Nam đã được cha ông chúng ta gầy dựng và gìn giữ từ hơn 4000 năm qua cho dù phải trải qua nhiều cuộc chiến với kẻ thù xâm lược. Dân tộc Việt Nam đáng tự hào là có được những trang sử oai hùng với Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi v.v… Dân tộc và đất nước chỉ được phát triển thực sự, nếu những tinh hoa của Dân tộc được phát huy. 
Tổng Thống Ngô Đình Diệm là một tấm gương sáng về cho sự thanh liêm, lòng yêu nước, tính tự cường, sự bảo vệ độc lập và chủ quyền của đất nước mà mọi con dân nước Việt cần phải nuôi dưỡng và phát huy. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn đen tối nhất của lịch sử Việt Nam. Giai đoạn mà chính người Việt lại đàn áp, bắt bớ, đánh đập, giam tù đồng bào của mình, bởi vì họ thổ lộ lòng yêu nước lên tiếng đòi hỏi quyền lợi Dân tộc, đòi hỏi chủ quyền đất nước. Giai đoạn mà lòng ái quốc, tinh thần Dân tộc bị trừng phạt, hèn nhác, tinh thần vọng ngoại được ban thưởng. Chính sách này rõ ràng nhằm tiêu diệt Dân tộc Việt Nam. 
Là người Việt Nam, chúng ta phải có trách nhiệm bằng mọi cách hóa giải Quốc nạn hiện nay để giao lại cho thế hệ sau một Tổ quốc Việt Nam tốt đẹp hơn Tổ quốc mà chúng ta đã nhận lại từ thế hệ trước. 
Xã hội biến chuyển không ngừng, đặc biệt là tốc độ biến chuyển xã hội trong giai đoạn toàn cấu hóa hiện nay rất nhanh đến độ khó lường trước được. Chế độ chính trị tại Việt Nam do đó sớm muộn rồi cũng sẽ thay đổi không bằng cách này cũng bằng cách khác. 
Những trang lịch sử Việt Nam sau này chắc chắn sẽ không ca tụng ông Tổng Bí thư A, Chủ tịch B, Thủ tướng C có được gia tài kếch xù trị giá 10 tỉ Mỹ kim mà lịch sử sẽ nguyền rủa các ông đã không thi hành trách nhiệm của mình đối với đất nước mà chỉ biết lợi dụng chức vụ vơ vét của công làm giàu bản thân và gia đình để mặc người dân phải sống vất vưởng, khổ cực. 
Nhưng lịch sử Việt Nam sẽ ca ngợi các ông bà trong ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước CSVN tương tự như lịch sử thế giới hiện nay đang ca ngợi Gorbachov và lịch sử Miến Điện sẽ ca ngợi Chính quyền Quân nhân Miến Điện. Nếu các ông, bà vì Nước, vì Dân từ bỏ quyền lợi cá nhân, đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Dân tộc Việt Nam, đồng thời thực hiện một cuộc cách mạng dân chủ ôn hòa tương tự như ở Miến Điện. Vì đó là điều kiện triệt hạ hệ thống tham nhũng rất hệ thống và qui mô hiện hữu từ vài chục năm qua trên đất nước Việt Nam và đó cũng là điều kiện để mọi tầng lớp người dân Việt hết lòng, hết sức tham gia tái kiến thiết quê hương. 
Tháng 11 năm 2012