Ngôn ngữ là phương tiện trao đổi ý tưởng trong cuộc
sống hàng ngày. Thế cho nên, ngôn ngữ cũng phải thay đổi theo cách sống
và lối sống của từng thời kỳ. Sự kiện tháng 4/1975 là một cột mốc
thay đổi lớn nhất trong đời sống văn hóa, chính trị và xã hội của
người miền Nam, kéo theo sự mai một của một số từ ngữ vốn đã dùng
quen hàng ngày.
Thay đổi sâu rộng nhất là cả một hệ thống chính
trị tại miền Nam
cho nên những từ ngữ có liên quan đến ý thức hệ cũ dần dần đã đi
vào quá khứ. Đó là quy luật tất yếu của cuộc sống. Bài viết này
có mục đích ghi lại những từ ngữ đã một thời phổ biến trong xã
hội miền Nam để những thế hệ kế tiếp có thể hiểu được những gì
cha ông đã thường nói trong cuộc sống hàng ngày.
Chiêu hồi là một
trong những từ ngữ của Sài Gòn xưa và sẽ dần dần đi vào quên lãng.
Đây là một chương trình do chính phủ Việt Nam Cộng hòa đề ra để khuyến khích
các thành phần vũ trang của Mặt trận Giải phóng miền Nam và Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa buông súng quay về với phe chính phủ. Vận động tuyên truyền
được thực hiện dưới nhiều hình thức: truyền đơn thả từ máy bay hoặc qua
những chương trình phát thanh và đài phát thanh [1].
Giấy Thông Hành
Chính phủ VNCH cho in và phổ biến Giấy thông hành nhằm mục đích giúp các cán binh, du kích trở về với quốc gia. Phần trên của Giấy thông hành có cờ VNCH và cờ của các quốc gia tham chiến gồm Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Thái Lan, Đại Hàn, Tân Tây Lan và Phi Luật Tân. Giấy thông hành được viết bằng 4 ngôn ngữ: Tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Đại Hàn và tiếng Thái. Phần dưới có nội dung như sau:
“MANG TẤM GIẤY THÔNG HÀNH nầy về cộng tác với Chánh
Phủ Quốc Gia các bạn sẽ được:
- Đón tiếp tử tế
- Bảo đảm an ninh
- Đãi ngộ tương xứng
(Ký tên)
Nguyễn Văn Thiệu
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa
Song song với việc phổ biến Giấy Thông Hành là các chương trình Phát thanh Chiêu hồi được mở đầu bằng bản nhạc Ngày Về của Hoàng Giác được dùng làm
nhạc hiệu (nghe Ngày Về qua giọng
ca của Anh Ngọc trên http://www.youtube.com/watch?v=rNKpu3IEW2c):
"Tung
cánh chim tìm về tổ ấm
nơi
sống bao ngày giờ đằm thắm
nhớ
phút chia ly, ngại ngùng bước chân đi
luyến
tiếc bao ngày xanh…”
Điều khá lý thú là Hoàng Giác (sinh năm 1924) vốn
là nhạc sĩ theo kháng chiến chống Pháp và đã từng là đội viên tuyên
truyền trong chiến khu Việt Bắc. Năm 1947, Hoàng Giác viết Ngày về, theo ông, đó là ca khúc ưng ý
nhất. Năm 1948 Hoàng Giác “dinh tê” trở về Hà Nội, hoạt động nghệ thuật
như một nhạc sĩ và cũng là một ca sĩ được dân Hà Thành hâm mộ.
Cũng giống như một số nhạc sĩ cùng thời, Hoàng Giác sáng
tác không nhiều, chỉ khoảng 20 ca khúc, trong số đó có những bài hát nổi tiếng,
vượt thời gian như Mơ hoa, Ngày về, Hương lúa đồng quê. Ông hiện sống ở Hà Nội và có người con trai
là nhà thơ khá nổi tiếng Hoàng Nhuận Cầm.
Báo Công an Nhân dân
trong bài viết “Nhạc sĩ Hoàng Giác: Mãi
giấc mơ hoa” có đoạn đề cập đến bản nhạc Ngày về: “Sau khi được một
số ca sĩ hát ở ngoài Bắc, vào cuối thập niên 60 của thế kỷ trước, rất ngẫu
nhiên, giai điệu của "Ngày về" được chính phủ Việt Nam Cộng hòa chọn
làm nhạc hiệu cho chương trình Chiêu hồi. Vì tình huống nhạy cảm này mà mãi đến
sau 1975, bài "Ngày về" mới được hát trở lại ở ngoài Bắc với nhiều
giọng ca nổi tiếng như tài tử Ngọc Bảo, Cao Minh, Lê Dung, Ngọc Tân…”
Nhạc sĩ Hoàng Giác
Những cán binh trở về với Chính phủ VNCH được gọi là người hồi chánh hay hồi chánh viên. Trong số những người hồi chánh có ca sĩ Bùi Thiện và Đoàn Chính (con trai nhạc sĩ Đoàn Chuẩn), nhà văn Xuân Vũ (tác giả hồi ký Đường Đi Không Đến và Vượt Trường Sơn, đã qua đời tại Texas năm 2002), Trung Tá Lê Xuân Chuyên (bị chính quyền mới xử tử hình vào ngày 30/4/1975), Trung tá Tám Hà, Trung tá Phan Văn Xưởng, Trung tá Huỳnh Cự…
Hồi chánh viên (từ trái qua phải): Trung Tá Phạm Viết Dũng,
Trung đoàn phó Phạm Văn Xướng, Trung Tá Tám Hà
Chiêu hồi, ngoài ý nghĩa chính trị còn được dùng như động từ để chiêu dụ ai đó, chẳng hạn như trong câu: “Hắn đã ‘chiêu hồi’ được một tay chọc trời khuấy nước về làm việc dưới trướng”. Gần đây, trên http://nguoivietblog.com/hagiang/?p=497, tác giả Tam Thanh có một bài viết với tiêu đề “Chiêu hồi” ngôn ngữ, bàn về cách dùng khác nhau và ý nghĩa đúng-sai của những từ ngữ xuất xứ từ miền Nam và miền Bắc.
Trần Trung Đạo trong bài “Mặc cảm chiêu hồi và khát vọng tự do” viết: “Tôi có
mặc cảm rằng ra Hà Nội là đầu hàng, ra Hà Nội là chấp nhận chế độ, là một hình
thức chiêu hồi. Tôi ở lại Việt Nam thêm 6 năm nhưng nhất định không đi thăm
miền Bắc, dù có nhiều cơ hội…” (http://www.trantrungdao.com/?p=262).
Thuật ngữ “chém vè”
cũng là một từ ngữ chính trị được sử dụng tại miền Nam. Chém vè, nguyên thủy có ý nghĩa ẩn mình dưới nước hoặc những nơi lùm bụi
rậm rạp gần bờ nước để trốn tránh. Theo một số người, “chém vè” xuất phát từ con ba ba (cua
đinh) với hai càng rất khỏe còn gọi là vè. Hễ nghe tiếng động, hai vè
của nó chém mạnh rồi chui vào bùn để trốn.
Đối với chính quyền VNCH, thuật ngữ “chém vè” chỉ tình trạng các cán
binh “giã từ vũ khí” để ra “hồi
chánh”. Xem ra, cũng chỉ một từ ngữ nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác
nhau tùy theo chính kiến. Đó cũng là điều dễ hiểu ở một đất nước
đang trong tình trạng chiến tranh về ý thức hệ.
Chuyện cười của Bác Ba Phi trong Rùa U Minh viết: “Hai bác
cháu tui chạy một mạch qua tới Lung Bùn, chém vè cho tới chiều. Về chưa tới nhà
thì thằng Ba Lùn chặn lại rủ vô nhà nhậu thịt rùa rang muối. Nó bảo là hồi trưa
nó đốt giang sậy ven Lung Tràm, bắt được vài chục con rùa. Nghe nói mà tui tiếc
hùi hụi. Hồi trưa thấy bầy rùa bò đó mà tưởng đâu xe lội nước [thiết vận
xa M113, chú thích của NNC], bỏ chạy
trốn. Thiệt tức!”. Chém vè ở
đây chỉ thuần túy là ẩn núp.
Theo hồi ký Chém vè
giữa làng báo Sài Gòn của nhà văn Nguyên Hùng [2], thuật ngữ “chém vè” trong bài viết này chỉ
việc những cán bộ Cộng sản, sau hiệp định Genève 1954, được đưa về Sài Gòn
để “trường kỳ mai phục”, “hoạt động trong lòng địch” hay còn gọi là “nằm vùng”.
“Nằm vùng” quả
là một từ vừa gợi hình lại gợi ý. Đối với chính quyền VNCH, nằm vùng là một từ có ý miệt
thị chỉ những người sinh sống tại miền Nam hoạt động bí mật cho
Cộng sản, tương tự như cụm từ người ta thường nói: “Ăn cơm Quốc gia, thờ ma Cộng sản”.
Mãi đến sau năm 1975, những nhân vật nằm
vùng mới dần dần lộ diện.
Theo cuốn Decent
Interval của Frank Snepp, cựu chuyên viên thẩm vấn của CIA, có đến hàng
chục ngàn cán bộ Cộng sản “nằm
vùng” tại miền Nam trong cuộc chiến vừa qua. Họ có thể là một
người lái taxi, đạp cyclo… hằng ngày vẫn theo đuổi công việc của mình
nhưng sau 30/4/1975 họ lại là những cán bộ trong Ủy ban Quân quản giữ nhiệm vụ điều hành một thành phố
Sài Gòn còn đang trong thời kỳ hỗn mang.
Ở một mức độ cao hơn, cán bộ “nằm vùng” nằm ngay trong guồng máy chính phủ Sài Gòn, nổi
bật nhất là nhân vật tình báo bí ẩn Phạm Ngọc Thảo [3]. Điều bất
ngờ là Thảo mang cấp bậc Đại tá của Quân lực VNCH tại miền Nam trong
khi chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm vẫn không biết ông còn là
Đại tá trong Quân đội Nhân dân ở miền Bắc.
Biết Phạm Ngọc Thảo từng là chỉ huy du kích Việt Minh, đầu
năm 1961 Ngô Đình Nhu đã quyết định cử ông làm tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hòa (tức
Bến Tre) để trắc nghiệm Chương trình Bình
định. Từ khi Phạm Ngọc Thảo nhậm chức, tình hình an ninh tại vùng này
trở nên rất yên ổn, không còn bị phục kích hay phá hoại nữa. Tuy nhiên, do có
nhiều tố cáo nghi ngờ ông là “cán bộ cộng
sản nằm vùng”, ông thôi giữ chức Tỉnh trưởng và được cử sang Hoa Kỳ
học một khóa về chỉ huy và tham mưu.
Tháng 9/1963 Bác sĩ Trần Kim Tuyến (nguyên Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị, thực chất là cơ
quan mật vụ) và Phạm Ngọc Thảo âm mưu một cuộc đảo chính. Phạm Ngọc Thảo đã kêu
gọi được một số đơn vị như Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, Biệt động quân, Bảo an...
sẵn sàng tham gia. Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ ngày 1/11/1963,
Phạm Ngọc Thảo được lên chức đại tá, làm tùy viên báo chí trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng.
Sau đó, Phạm Ngọc Thảo phải rút vào hoạt động bí mật cho
phía bên kia chiến tuyến vì ngày càng nhiều nghi vấn ông là Việt Cộng mằm vùng. Phạm Ngọc
Thảo bị chính quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu kết án tử hình và
treo giải 3 triệu đồng cho ai bắt được. Cuối cùng, Phạm Ngọc Thảo bị Cục
an ninh quân đội (Số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm) bắt giữ và bị thủ tiêu ngày
17/7/1965 khi mới 43 tuổi.
Những năm hoạt động “nằm
vùng” của Phạm Ngọc Thảo cho chính quyền miền Bắc được ngụy
trang rất kỹ và rất ít người ở miền Nam biết ông là một nhà tình báo.
Ngay cả sau 30/4/1975, nấm mộ ông vẫn chỉ là nấm mồ vô danh vì ông hoạt
động “đơn tuyến”. Mãi sau này, một số đồng đội đã sưu tầm tài liệu
về ông và đề nghị Nhà nước truy tặng ông danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân... Năm 1987, nhà cầm quyền
truy tặng ông danh hiệu liệt sỹ với
quân hàm đại tá và mộ của ông được đưa về nghĩa trang thành phố, trên đồi
Lạc Cảnh (huyện Thủ Đức).
Phạm Ngọc Thảo được coi là một trong 4 tình báo viên xuất
sắc nhất của Chính phủ miền Bắc (3 người kia là Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ
và Lê Hữu Thúy). Đối với Chính phủ miền Nam, cả 4 người này đều là “Việt Cộng Nằm Vùng”, không hơn không
kém!
Tiểu thuyết Ván Bài
Lật Ngửa của nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý (Trần Bạch Đằng) được mở
đầu bằng câu: “Tưởng nhớ anh Chín T. và
những người đã chiến đấu hy sinh thầm lặng”. Nhân vật chính trong
truyện, Nguyễn Thành Luân, chính là hình ảnh của Phạm Ngọc Thảo, bí
danh Chín T. hay Chín Thảo.
Đại tá Phạm Ngọc Thảo dưới sắc áo Quốc gia
Nhân vật “nằm vùng” thứ hai là Phạm Xuân Ẩn [4] là một thiếu tướng tình báo của Hà Nội với biệt danh Trần Văn Trung hay Hai Trung. Trong suốt thời gian chiến tranh, Phạm Xuân Ẩn sống tại Sài Gòn dưới vỏ bọc “ký giả” làm việc tại Việt tấn xã, cộng tác với hãng thông tấn Reuters và có nhiều bài viết trên tạp chí Time, New York Herald Tribune, The Christian Science Monitor...
Theo một tài liệu được công bố, Phạm Xuân Ẩn đã gửi về
Hà Nội 498 báo cáo bao gồm tài liệu nguyên gốc đã được sao chụp, các thông
tin thu lượm cùng phân tích và nhận định của Ẩn về VNCH và Hoa Kỳ. Là
người đã từng được đào tạo về ngành báo chí tại Mỹ, Phạm Xuân Ẩn
là nhân vật được chèo kéo bởi nhiều cơ quan tình báo miền Nam cũng như miền
Bắc, trong nước cũng như ngoài nước, kể cả CIA.
Ngày Sài Gòn đổi chủ, vợ con Phạm Xuân Ẩn đã rời
Việt Nam theo chiến dịch di tản của người Mỹ và theo kế hoạch của miền
Bắc, ông sẽ được gửi sang Mỹ để tiếp tục hoạt động tình báo. Tuy nhiên, theo
một số tài liệu, Phạm Xuân Ẩn đã đề nghị cấp trên cho ngưng công tác vì
lý do đã “hoàn thành nhiệm vụ”. Kế hoạch thay đổi, vợ con ông đã phải mất một
năm để quay lại Việt Nam
theo đường vòng: Paris - Moscow
- Hà Nội - Sài Gòn.
Như cái tên “định mệnh” mà ông mang, cuộc đời của
Phạm Xuân Ẩn lúc “ẩn”, lúc “hiện” và cũng có lúc “lên voi”, lúc “xuống chó”. Năm 1997, chính phủ Việt Nam từ chối không cho phép
Phạm Xuân Ẩn đến Hoa Kỳ để dự một hội nghị ở New York mà ông được mời với tư
cách khách mời đặc biệt. Trong những
năm cuối đời, có vẻ như Phạm Xuân Ẩn cảm thấy thất vọng với những gì ông
chứng kiến tại Việt Nam
sau cuộc chiến. Ông tiết lộ với Thomas A. Bass, tác giả cuốn The Spy Who Loved Us: “Dân chúng tại đây [tức Việt Nam] không được viết tự do. Đó là vì sao tôi
không viết hồi ký”.
Năm 1978, Phạm Xuân Ẩn phải ra Hà Nội học tập chính trị dành cho cán bộ cao cấp trong 10 tháng. Sự kiện
này được xem như một hình thức “cải tạo” và ông giải thích vì lý do
đã “sống quá lâu trong lòng địch”. Có người cho rằng ông bị nghi kị và bị
quản chế tại gia, không được xuất ngoại, bị cấm tiếp xúc với bên ngoài, đặc
biệt với giới báo chí ngoại quốc do cách suy nghĩ, cư xử… “rất Mỹ”.
Ông đã từng giúp bác sĩ Trần Kim Tuyến rời khỏi Việt Nam
vào ngày 30/4/1975 (Bác sĩ Tuyến là “xếp” cũ của Phạm Xuân Ẩn năm
1959. Cơ quan mật vụ của BS Tuyến biệt phái ông sang làm việc tại Việt tấn xã, phụ trách bộ phận
các phóng viên ngoại quốc làm việc trong cơ quan này).
Phạm Xuân Ẩn và các con
Vũ Ngọc Nhạ [5], Thiếu tướng tình báo của Hà Nội cũng là một trường hợp “nằm vùng” ngay trong đầu não của nền Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa tại miền Nam, kéo dài từ năm 1954 đến ngày Sài Gòn sụp đổ. Miền Bắc ca tụng ông là “điệp viên siêu hạng” với những “điệp vụ bất khả thi” trong “vụ án chính trị lớn nhất thời đại”.
Với vỏ bọc của một “con chiên ngoan đạo” đã từng
sát cánh với Giám mục Lê Hữu Từ
và Linh mục Hoàng Quỳnh,
Phạm Ngọc Thảo trở thành một
người tâm phúc, thường xuyên bàn bạc những vấn đề cơ mật với Tổng
thống Ngô Đình Diệm. Thời Đệ nhất Cộng hòa có “bốn con rồng”: Bạch Long (Ngô Đình Diệm), Hồng Long (Ngô Đình Thục), Thanh Long (Ngô Đình Nhu) và Hắc Long (Ngô Đình Cẩn). Cố vấn Ngô
Đình Nhu đã gọi Vũ Ngọc Nhạ là Hoàng
Long để trở thành con rồng thứ năm trong Ngũ Long của Đệ nhất
Cộng hòa.
Cuối năm 1965, do sự chạy đua quyền lực quyết liệt trong
nhóm các tướng trẻ, tướng Nguyễn Văn Thiệu đã sử dụng Vũ Ngọc Nhạ trong vai trò
liên lạc viên với Công giáo, qua sự giới thiệu của Linh mục Hoàng Quỳnh, nhằm
tìm chỗ dựa chính trị. Là một điệp viên, Vũ Ngọc Nhạ đã khéo léo sử dụng vai
trò này để tạo dựng các mối quan hệ và gây ảnh hưởng đến giới chính trị cả
trong dân sự lẫn quân sự.
Một lần nữa, Vũ Ngọc Nhạ trở thành “Ông Cố Vấn” sau
khi tướng Thiệu đắc cử Tổng thống năm 1967. Đây cũng là thời điểm
mạng lưới tình báo A.22 (vốn là mật danh riêng của Nhạ) được hình thành
và phát triển. Thành công ngoạn
mục nhất của cụm tình báo A22 là thu hút được Huỳnh Văn Trọng, một phụ tá của Tổng
thống Thiệu.
Tháng 8/1968, tướng Thiệu đã cử Huỳnh Văn Trọng cầm đầu một phái đoàn
của Việt Nam Cộng hòa sang Hoa Kỳ tiếp xúc, gặp gỡ với hàng loạt tổ chức, cá
nhân trong chính phủ và chính giới Hoa Kỳ để thăm dò thái độ của Chính phủ
Johnson đối với cuộc chiến tại Việt Nam. Chính những thông tin này đã góp một
phần cho Hà Nội trước khi
ngồi vào bàn đàm phán tại Paris với Mỹ.
Vũ Ngọc Nhạ và “vụ án chính trị lớn nhất thời đại”
Ở trường Sinh ngữ Quân đội, một đơn vị tương đối nhỏ trong quân lực VNCH, cũng đã có vài trường hợp “nằm vùng”. Nổi bật nhất có Đại úy TVQ và Thiếu úy NCD. Đại úy Q. là người từ đơn vị chuyển về trường SNQĐ khi nhu cầu huấn luyện Anh văn cho quân đội tăng cao do chương trình Việt Nam hóa chiến tranh nhằm đào tạo quân nhân các binh chủng Hải-Lục-Không quân VNCH đi học chuyên môn tại Hoa Kỳ để về nước đảm nhận công việc của quân đội Mỹ.
Sự gia tăng bất ngờ về số khóa sinh tại trường SNQĐ
khiến nhà trường phải tuyển thêm quân nhân có khả năng tiếng Anh từ
các đơn vị về để đào tạo thành giảng viên Anh ngữ. Đại úy Q. thuộc
thành phần bổ xung đó. Q. về trường khi đã đeo lon Đại úy từ một đơn
vị chiến tranh chính trị. Anh là một sĩ quan hiền lành, ít nói nhưng
sau ngày 30/4/75 bạn bè cũ mới “bật ngửa” khi biết anh thuộc hàng
ngũ… bên kia chiến tuyến.
Sau thời gian cải tạo tôi trở về Sài Gòn gặp lại Q.
khi đó là nhân viên hành chánh của trường Đại học Kinh tế. Tôi tiếp
xúc với anh một cách dè dặt trong một vài buổi họp mặt các anh em
giảng viên cũ. Sau đó Q. biến mất khỏi các cuộc gặp gỡ, có lẽ vì
không chịu nổi những xầm xì, bàn tán về vai trò “nằm vùng” của mình.
Trường hợp “nằm
vùng” thứ hai ở trường SNQĐ là Thiếu úy NCD, một người được
tuyển thẳng từ Thủ Đức về trường. Cũng như Đại úy Q., Thiếu úy D.
là người ít nói và hầu như rất ít giảng viên trong trường để ý đến
người thanh niên “trầm lặng” này. Sau này, có một số anh em giảng viên
nói chính Thiếu úy NCD đã “tiếp quản” trường SNQĐ những ngày đầu
tháng 5/75.
Hành tung của viên thiếu úy “nằm vùng” được sáng tỏ: người anh của NCD là một cán bộ
cao cấp. Được coi là một trí thức Marx-Lenin, Viện sĩ NCT (Sáu Quang),
anh ruột NCD, là nguyên Bí thư Thành Đoàn giai đoạn 1977 - 1981, Trưởng Ban
quản lý Khu Chế Xuất – Khu Công Nghiệp đầu tiên của thành phố, nguyên Chủ
nhiệm Ủy ban về Người Việt Nam ở nước ngoài và hiện là Viện phó Viện khoa học
công nghệ Phương Nam (thuộc Liên hiệp Khoa học kỹ thuật Việt Nam). Có người
anh như vậy nên thiếu úy NCD không “nằm
vùng” mới là chuyện lạ!
Với những câu chuyện “nằm
vùng” điển hình ở mọi cấp chính quyền miền Nam kể trên, quân đội
miền Bắc ngày càng tiến dần đến thủ đô và người Sài Gòn ngỡ ngàng
trước biến cố 30/4/1975. “Tiên trách
kỷ, hậu trách nhân” có lẽ là một trong những triết lý thâm thúy
nhất được rút ra trong cuộc chiến vừa qua.
===
Một thời để nhớ!!
Trả lờiXóaĐịa chỉ phòng khám đa khoa hồng phong
http://baophapluat.vn/thong-tin-doanh-nghiep/phong-kham-da-khoa-hong-phong-noi-hoi-tu-nhieu-bac-si-chuyen-khoa-gioi-363635.html
https://www.youtube.com/watch?v=DrXJ4Azpqt4
https://dantri.com.vn/tu-van/phong-kham-da-khoa-hong-phong-phuc-vu-chuyen-nghiep-hieu-qua-cho-benh-nhan-20180131173317092.htm