TUYÊN BỐ CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HÒA NGÀY 26/4/1958 VỀ VẤN ĐỀ TÁI THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
Chính phủ Việt Nam Công hòa là một chính quyền kế tiếp do Chính phủ Mỹ
dựng lên tại miền Nam Việt Nam; dù hiện nay Chính phủ này không còn
nhưng những vấn đề liên quan tới các hoạt động của nó chúng ta không
thể, không nên bứt, xóa ra khỏi biên niên sử dân tộc.
Trên tinh thần tôn trọng sự thật lịch sử, chủ blog xin trân trọng giới thiệu nguyên văn bản Tuyên bố này do ông Nguyễn Hội sưu tầm
được trong thư viện một trường Đại học Đức „Bản Tuyên Bố của Chính Phủ
Việt Nam Cộng Hoà ngày 26.04.1958 về vấn đề tái thống nhất đất nước“
bằng tiếng Đức;
ông Nguyễn Hội đã cất công dịch trở lại ra tiếng Việt; xét thấy công bố
tài liệu này để cung cấp tài liệu cho các nhà nghiên cứu lịch sử và bạn
đọc quan tâm tới vấn đề lịch sử cũng là một việc cần thiết…
Tác giả bản dịch đã cho biết:”Công việc dịch ra tiếng Việt từ tiềng Đức chắc chắn không thể diễn tả hết hoàn toàn ý tưởng của bản Tuyên bố. Kính mong Quí Vị niệm tình tha thứ nếu có sơ sót…”
Tất
nhiên lời lẽ, lập luận trong văn bản Tuyên bố này được viết ra theo
quan điểm, cách nhìn hoàn toàn trái ngược với những quan niệm chính
thống của chúng ta; tuy vậy, khôi phục và tạo điều kiện để mọi người
được tiếp cận lại những tư liệu này cùng là điều cần vì nó đã trở thành…
tài liệu gắn với một giai đoan lịch sử!
Hơn
bất cứ loại hình khoa học xã hội nào khác, lịch sử là môn cần phải được
trình bày sát gần với sự thật; bởi một nửa sự thật chưa phải là sự
thật, lời một câu ngạn ngữ phương Tây…
Xin giới thiệu cùng quý vị và trân trọng cảm ơn ông Nguyễn Hội.
Trong
bức thư đề ngày 7 tháng ba năm1958, được sử dụng với mục đích tuyên
truyền - bởi vì văn bản được phát đi ngay lập tức bởi Đài phát thanh Hà Nội
và Đài phát thanh Bắc Kinh - Nhà chức trách Hà Nội đưa đề nghị „thiết
lập quan hệ bình thường“, đề nghị xem xét vấn đề tái thống nhất đất
nước, hạn chế quân sự và giao thương giữa hai vùng.
Mặc
dù đồng bào chúng tôi ở miền Nam và miền Trung Việt Nam đã được thông
báo về tính chất lừa đảo của tuyền truyền cộng sản, Chính phủ Việt Nam
Cộng Hòa cũng phải có trách nhiệm giải thích cho đồng bào ở miền Bắc,
những người đang bị cô lập với mọi thông tin xác thực và dư luận thế
giới, các mâu thuẫn giữa tuyên bố và hành động của nhà chức trách Hà Nội
cùng thực trạng bất lương về những cáo buộc của họ.
Vấn đề thống nhất đất nước và cuộc bầu cử chung
Xin
nhớ rằng, Chính phủ chúng tôi đã luôn luôn bảo vệ sự thống nhất của đất
nước. Trong Hội nghị Genève năm 1954, phái đoàn Việt Nam đã phản đối
mạnh mẽ chống lại ý định của cộng sản Việt Nam. Phái đoàn chúng tôi đã
chống việc chia ly tạm thời của đất nước. Chúng tôi đã đề xuất việc thu
các đơn vị quân sự của cả hai bên vào một số khu vực hạn chế và sau đó
tổ chức cuộc bầu cử tự do dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp Quốc. Phái
đoàn Cộng sản đã bác bỏ đề nghị trên, họ đòi hỏi chia đất nước từ vĩ
tuyến 17 nhằm đạt dân số trội hơn miền Nam. Sau cuộc trốn chạy của hơn
một triệu người tị nạn về miền Nam, tại miền Bắc vẫn còn hơn 13 triệu
người so với 11 triệu người dân sinh sống trong miền Nam.
Nhờ
vào chế độ công an trị và quân đội lớn hơn so với Việt Nam Cộng hòa,
cộng sản tin rằng họ có thể ép dân chúng miền Bắc, dân số cao hơn, bỏ
phiếu bầu cho họ ngõ hầu chế độ cộng sản có thể thống trị trên toàn lãnh
thổ Việt Nam và như thế, nền hoà bình trong vùng Đông Nam Á sẽ bị đe
doạ.
Từ
ý tưởng này người cộng sản đòi hỏi thực hiện một cuộc Phổ thông đầu
phiếu tại Việt Nam, trong khi họ luôn từ chối các cuộc bầu cử tự do tại
Đức và Đại Hàn, bởi vì trong hai quốc gia này dân số trong vùng họ kiểm
soát ít hơn so với các khu vực tự do; do đó họ không có cơ hội để thực
hiện ý đồ đen tối của mình.
Thái
độ mâu thuẫn của cộng sản về vấn đề thống nhất đất nước ở các quốc gia
bị phân chia cho thấy động cơ thầm kín của họ nhằm thực hiện những cuộc
bầu cử không tự do và không thành thật.
Mặc
dù nhà chức trách Hà Nội đòi hỏi cuộc bầu cử chung, nhưng họ lại không
tổ chức một cuộc bầu cử tự do trong vùng tạm kiểm soát của mình để canh
tân cái gọi là Quốc hội của họ. Quốc hội này bao gồm một số thành viên
được chỉ định và một số thành viên được bầu trong sự hỗn loạn của năm
1946, hiện nay phải đối mặt với thực tế là một số thành viên đã bỏ chạy
về miền Nam. Quy định vào
Hiến pháp của họ, một bản Hiến pháp được hoàn thành không có sự tranh
luận, trong một phiên họp chỉ kéo dài có một ngày, thì nhiệm vụ những
đại biểu của Quốc hội này đã được chấm dứt từ hơn 8 năm nay rồi. Cộng
sản Việt Nam do đó đã không tôn trọng hiến pháp của chính họ. Đồng thời họ đã thiết lập chế độ Cộng sản ở miền Bắc, mà không trưng cầu ý dân. Và họ không bao giờ trưng cầu dân ý vì họ biết rằng dân chúng sẽ không bao giờ chấp nhận cái chế độ này.
Chính phủ chúng tôi đã tiến hành một cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 23 Tháng 10 năm 1955́,
dựa theo đó chế độ cũ được bãi bỏ và chế độ Cộng hòa đã được thành lập.
Sau đó chính phủ chúng tôi đã tổ chức cuộc bầu cử Quốc hội vào tháng 3
năm 1956 ở miền Trung và miền Nam Việt Nam. Quốc hội này đã soạn thảo
và thông qua một bản Hiến pháp. Hiến Pháp này đã được công bố sau đó.
Những
tổ chức dân chủ và các tiến bộ mà chính phủ chúng tôi đã đạt được
trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội, đã được cảm thông của
cả thế giới. Đến ngày hôm nay đã có 56 quốc gia công nhận chính phủ
chúng tôi, duy trì quan hệ ngoại giao với chúng tôi, hoặc đã đề nghị
chúng tôi được gia nhập Liên Hiệp Quốc. Nhà cầm quyền cộng sản ở miền
Bắc chỉ được sự công nhận của khoảng 10 chính phủ cộng sản. Trong những
năm gần đây, ảnh hưởng của Việt Nam Tự Do đã được tăng đáng kể: Nước
chúng tôi hiện nay là thành viên của 33 tổ chức quốc tế và Sài Gòn được
chọn là trụ sở của nhiều hội nghị quốc tế.
Do
đó, rất kỳ lạ khi thấy những người có trách nhiệm phân chia đất nước,
không dám tiến hành bầu cử trong vùng tạm kiểm soát của họ và sau đó
lại đổ lỗi cho chính phủ chúng tôi từ chối thống nhất đất nước và từ
chối bầu cử chung.
Vấn đề về giao thông đi lại giữa liên khu vực tự do
Nhà
chức trách Hà Nội đã dấu không thông tin cho người dân miền Bắc biết,
rằng người dân có quyền chọn lựa khu vực để sinh sống. Với chế độ khủng
bố, họ đã ngăn cản các chuyến di tản của dân chúng miền Bắc; họ đã dùng
bạo lực bắt giữ thân nhân những người đã di cư về miền Nam. Tại Ba-Làng
và Lưu-Mỹ họ đã nổ súng đàn áp những người đã cố gắng đi đến khu vực tự
do.
Họ
cũng đã rút ngắn thời gian cho tự do giao thông liên vùng và tự do lựa
chọn vùng sinh sống, qua việc qui định thời hạn vào ngày 19 Tháng 5 năm
1955. Sau thời gian này, chính phủ chúng tôi đã đề nghị gia hạn thời
gian giao thông liên vùng tự do. Nhưng nhà chức trách Hà Nội muốn hủy bỏ
càng nhanh càng tốt sự liên kết giữa hai khu vực, nhằm ngăn chặn các
chuyến tỵ nạn về miền Nam và luôn bày tỏ ý đồ xấu xa này của họ. Do đó
nhà chức trách Hà Nội đã chỉ gia hạn thời gian di tản thêm hai tháng,
tức là đến ngày 20 Tháng 7 năm 1955, và trong hai tháng đó họ đã chỉ
cung cấp một chiếc thuyền cho những người muốn về miền Nam.
Bất
chấp mọi nỗ lực để ngăn cản việc di tản, bất chấp bị khủng bố và trù
dập bằng bạo lực và cho dù thời hạn được di tản rất ngắn ngủi, nhưng
gần một triệu đồng bào từ miền Bắc đã di cư về miền Nam thành công. Mặc
dù đồng bào của chúng tôi ở phía bên kia vĩ tuyến 17 bị mất quyền tự do
di chuyển ngay cả trong khu vực sinh sống của mình, ngày nay họ vẫn còn
chạy trốn về miền Nam bằng cách vượt dẫy núi Trường Sơn[1], hoặc trong
các chiếc thuyền mỏng manh dọc bờ biển. Một số người không may mắn bị
rơi vào tay cộng sản và bị giết, hoặc đã bị tra tấn tàn nhẫn. Những
người khác đã chết vì kiệt sức trong rừng sâu hoặc là nạn nhân của các
cơn bão biển.
Hiện
nay có 81 123 người và 1955 gia đình đã tự, hoặc qua đại diện của họ,
làm đơn yêu cầu được di tản vào miền Nam. Yêu cầu của họ đã được giao
cho Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến. Nhưng nhà chức trách Hà Nội
phản đối những yêu cầu này.
Ngoài
ra, còn có một số gia đình từ miền Trung và miền Nam Việt Nam đã đòi
hỏi cho anh em, chồng con họ, những người đã bị cộng sản dùng bạo lực
bắt cóc đưa về miền Bắc, phải được hồi hương. Tổng số đơn yêu cầu về
việc này là 11.196, đã được chuyển tiếp đến Ủy hội Quốc tế Kiểm soát
Đình chiến. Ngoài các đơn kiện này, còn có rất nhiều trường hợp khác
được gửi trực tiếp đến Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến, và số lượng
đơn của những trường hợp này không bao giờ được công bố. Qua sự phản
đối, chống lại những yêu cầu của người dân được nêu trên, nhà chức trách
Hà Nội phải gánh trách
nhiệm về tình trạng đau đớn vì chia ly của các gia đình này. Sau khi
cộng sản cấm đoán người dân tự do đi lại ngay cả trong khu vực miền Bắc
Việt Nam và ngăn chặn những người muốn di tản đi xa, bây giờ thì họ lại
rêu rao, tuyên truyền là „tự do đi lại“ và „khôi phục lại mối quan hệ
bình thường“.
Vấn đề cắt giảm lực lượng quân sự
Từ
3 năm qua nhà chức trách Hà Nội luôn luôn cổ võ cho hòa bình. Nhưng
hành động của họ luôn tương phản lớn với chủ đề tuyên truyền của họ.
Họ
đã không dừng lại mà luôn tăng cường lực lượng quân sự và nâng cấp
trang bị vũ khí kể từ sau khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực và như vậy là
vi phạm Hiệp định Genève do chính họ đã ký kết.
Cần
quan tâm đến một giác thư của chính phủ Vương quốc Anh gửi cho Liên Xô
ngày 9 Tháng 4 năm 1956. Là đồng chủ tịch của Hội nghị Genève, chính phủ
Anh đã cáo buộc chính quyền Hà Nội, kể từ khi ngừng chiến đến nay họ đã
tăng cường lực lượng quân sự từ 7 lên 20 sư đoàn.
Ngoại
trưởng Pháp tháng 3 năm 1958 cho biết, rằng nhà chức trách Hà Nội đã
gia tăng quân đội lên đến 350.000 quân và công an, cảnh sát lên tới
200.000 người.
Họ
cũng đã nhập cảng vũ khí từ các nước cộng sản để tăng cường lực lượng
quân sự của họ. Trong ba năm qua họ đã không tôn trọng Hiệp định Genève,
bởi vì họ chưa bao giờ thông báo cho Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình
chiến về việc nhập cảng vũ khí vào Việt Nam.
Mâu
thuẫn với thực tế, nhà chức trách Hà Nội tuyên bố rằng họ đã giảm lực
lượng quân sự của họ xuống còn 80.000 người. Nhưng cho đến nay họ chưa
bao giờ nói bất cứ điều gì về con số thực sự quân đội của họ, trước khi
hoặc sau khi cái họ gọi là giảm quân. Họ không đưa ra bằng chứng về
những lời tuyên bố của mình và không chấp nhận mọi cuộc điều tra.
Họ
không có lý do duy trì một quân đội mạnh mẽ hơn Việt Nam Cộng Hòa. Đây
là mối đe dọa cho nền hòa bình không những chỉ cho Việt Nam mà còn cho
các nước ở trong vùng Đông Nam Á. Để có khả năng duy trì một quân đội to
lớn như vậy, nhà chức trách BắcViệt áp đặt mức thuế cao và hệ thống
„đấu tố“, với hệ thống này họ đã ép buộc những người vợ, những người con
phải tố cáo cha mẹ và chồng mình đã „dấu vàng của nhân dân“. Những
người này thậm chí đã phải tự đánh mình và cuối cùng họ bị xử tử ngay
tai chỗ mà không thông qua một cuộc xét xử của toà án. Có thể nói rằng
dân tộc chúng tôi phải chịu nhiều đau khổ với chính quyền miền Bắc hơn
bất kỳ dân tộc nào khác trên thế giới này.
Ngược lại, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã luôn luôn phục vụ cho nền hòa bình kể từ hiệp định Genève. Để đảm bảo lực lượng lao
động cần thiết cho việc tái thiết đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh,
chúng tôi đã giảm quân đội từ 242.000 xuống còn 150.000, đồng thời
chúng tôi đã không bổ xung thay thế 180.000 binh lính của „Đội quân Viễn
chinh“ Pháp. Cộng sản mong muốn duy trì Đội quân này lại ở Việt Nam.
Vấn đề giảm lực lượng quân sự được phổ biến rộng rãi, điều này rất dễ
kiểm chứng.
Nhân
đây cũng xin nhắc lại lời tuyên bố long trọng của Chính phủ Quốc gia
vào ngày 6 Tháng 4 năm 1956 là không tham gia bất kỳ liên minh quân sự
nào và không cho phép cài đặt căn cứ quân sự ngoại quốc trên lãnh thổ
của mình.
Vấn đề trao đổi thương mại
Trong
thư đề ngày 7 Tháng Ba nhà chức trách Hà Nội đã đề xuất việc trao đổi
thương mại với miền Nam. Qua đánh giá đề nghị này và qua tin tức nhận
được cho thấy rằng đồng bào miền Bắc mong muốn, cầu xin sự giúp đỡ của
thân nhân hoặc bạn bè ở miền Nam, có thể một vài mét vải hoặc vài viên
thuốc aspirin. Nền kinh tế miền Bắc do sự thống trị của Đảng Cộng sản
đang ở dưới đáy vực sâu. Đề nghị của cộng sản không nhằm mục đích nâng
cao đời sống của dân chúng miền Bắc. Do hệ thống độc quyền với chính
sách nội thương và ngoại thương mà họ đã đề ra là mua sản phẩm nông
nghiệp của dân chúng với giá rẻ mạt và bán lại những sản phẩm này với
giá cao hơn đáng kể. Mục tiêu của họ chỉ là, thu thập sự phong phú của
miền Nam vào ngân sách đảng của họ. Nếu nhà chức trách miền Bắc muốn đề
nghị của họ được duyệt xét thì điều kiện đầu tiên là họ phải đặt quyền
lợi người dân lên trên lợi ích của đảng. Đồng thời họ phải để cho dân
chúng miền Bắc toàn quyền tự do thương mại và từ bỏ sự độc quyền kinh
tế mà đảng cộng sản đã chiếm đoạt từ trước đến giờ.
Vấn đề trao đổi thư từ và bưu thiếp.
Mặc
dù cộng sản không đề cập đến đề tài này trong thư của họ đề ngày 7
tháng ba năm 58, nhưng họ đã nhiều lần đề nghị nối lại dịch vụ bưu chính
giữa hai khu vực. Cho đến hôm nay, cộng sản đã sử dụng các bưu thiếp
như một phương tiện tuyên truyền nhiều hơn so với những phong thư được
đóng kín. Yêu cầu trao đổi thư từ của họ không ngoài mục đích nào khác
là tăng cường chiến dịch đe dọa và ăn xin người dân miền Nam. Vì quyền
lợi của dân chúng, Chính phủ Quốc gia không thể thực hiện đề nghị này,
nhưng Chính phủ yêu cầu cộng sản khai triển trao đổi bưu thiếp một cách
đơn giản để nhân dân của hai Miền có thể liên lạc được với nhau.
Sự
thật được mô tả trên đây cho thấy bản chất lừa đảo của các đề nghị của
cộng sản, chẳng hạn như tăng cường củng cố lực lượng quân sự của mình,
lệnh cấm di chuyển giữa hai khu vực, các vụ giết người muốn di tản về
miền Nam, họ đã gây ra những trở ngại để các thân nhân của các gia đình
sống tản mác không tìm được nhau và lợi dụng việc trao đổi bưu thiếp
nhằm vào mục đích tuyên truyền.
Mâu
thuẫn giữa tuyên truyền và hành động của nhà chức trách Hà Nội thật đã
rõ ràng. Từ nhiều năm qua thái độ của họ vẫn luôn như một. Để chứng
minh thái độ của họ đã thay đổi, họ hãy thực hiện một số hành động cụ
thể như sau:
1)
Họ hãy để cho 92 319 người và 1955 gia đình thực hiện ý nguyện của mình
là được di cư về miền Nam, đơn của những người và gia đình này đã nộp
cho Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến, để những người này được đoàn tụ
với gia đình của họ.
2)
Họ nên giảm lực lượng quân sự của họ tương đương với miền Nam Việt Nam.
Việc giảm bớt phải được xác nhận là đúng bởi một Ủy ban quốc tế hữu
trách. Sau đó vấn đề giới hạn lực lượng quân đội của hai vùng mới được
bàn thảo.
3)
Họ cần phải xóa bỏ cái gọi là „Ủy ban Giải phóng miền Nam“, bằng cách
từ bỏ khủng bố, giết dân cư của những làng mạc xa xôi hẻo lánh, phá hoại
cơ sở Chính phủ nhằm cải thiện đời sống của người dân, đặc biệt trong
lĩnh vực cải cách ruộng đất và nông nghiệp.
4)
Họ phải từ bỏ sự độc quyền kinh tế của đảng Cộng sản, để nhân dân miền
Bắc Việt Nam được làm việc trong hoàn toàn tự do và qua đó, có thể tăng
mức sống của họ hiện đã bị giảm xuống đến mức chưa từng có từ xưa đến
nay.
5)
Họ không được buộc dân chúng phải cất tiếng ca ngợi họ[2] trong các bưu
thiếp. Họ nên giải tán ban biên tập công tác tuyên truyền phục vụ bưu
thiếp. Họ không được trả thù những người nhận hoặc gửi bưu thiếp.
6)
Họ phải tôn trọng các quyền tự do dân chủ trong khu vực của họ như ở
miền Nam và nâng cao mức sống của dân chúng miền Bắc, ít nhất được tương
đương với dân chúng miền Nam; họ không được dùng chế độ vô nhân đạo
của họ để làm cho khoảng cách giữa hai vùng lớn hơn nữa.
Nếu
khảo sát các sự kiện kỹ càng, ta sẽ nhận thấy bức thư ngày 7 Tháng Ba
năm 58 của nhà chức trách Hà Nội có mục đích chủ yếu nhằm tuyên truyền
và phá hoại, chống lại sự giúp đỡ của các quốc gia bạn. Cộng sản đã hành
động theo đơn đặt hàng của Liên Xô và cộng sản Trung Quốc, trong lá thư
trên đã chỉ trích gay gắt Mỹ và cáo buộc người Mỹ can thiệp vào nội bộ
của miền Nam Việt Nam.
Thực
tế hoàn toàn ngược lại với những cáo buộc của cộng sản: mối quan hệ
Việt-Mỹ hoàn toàn bình đẳng dựa trên luật pháp quốc tế giữa hai nước,
cùng tôn trọng chủ quyền của nhau. Tương tự sự liên kết giữa Chính phủ
Việt Nam Cộng Hòa và các nước trong thế giới Tự do. Mục đích mối quan hệ
hữu nghị giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chỉ nhằm bảo đảm nền hòa bình và tự
do.
Mối
quan hệ giữa nhà chức trách Hà Nội cùng giới thống trị Nga và Trung
Quốc, thuộc một thể loại khác. Họ là một vệ tinh đối với giới cai trị.
Họ là hạ cấp so với thượng cấp trong hệ thống phân cấp của một đảng:
đảng Cộng sản Quốc tế. Sự phụ thuộc này không chỉ được thể hiện qua sự
đồng nhất của các tổ chức chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội
theo kiểu mẫu của cộng sản Liên Xô và Trung Quốc, mà sự lệ thuộc này còn
thâm nhập ngay cả vào lĩnh vực tư tưởng: trong các nghị định và các quy
định của họ nhà chức trách Hà Nội bắt buộc dân chúng miền Bắc phải học
các hệ tư tưởng cộng sản và sống theo đường lối chính trị của Nga và
Trung Quốc.
Ở
miền Nam, không ai bị bắt buộc phải tôn thờ các nhà lãnh đạo ngoại quốc
và treo hình ảnh họ trong nhà, ở đây không ai có thể tưởng tượng rằng
họ có thể hành xử điều kỳ lạ nêu trên.
Ở
miền Bắc, nhà chức trách ép buộc dân chúng phải sùng bái các các nhà
lãnh đạo Nga và Trung Quốc, treo hình ảnh của họ ở nhà và trong những
ngày lễ của Liên Xô. Đồng thời họ cấm đoán dân chúng không được phê bình
ý thức hệ cộng sản, không được phê bình chính phủ và giới lãnh đạo các
nước cộng sản.
Thái
độ hèn hạ của nhà chức trách Hà Nội đối với cộng sản ngoại quốc đã hủy
hoại đời sống của dân tộc Việt, và là trở ngại lớn nhất cho công cuộc
thống nhất đất nước.
Hệ tư tưởng cộng sản hoàn toàn phản nghịch với truyền thống tâm linh của châu Á và tính chất quốc gia của dân tộc Việt Nam.
Để
tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc bầu cử tự do, nhà chức trách Hà
Nội phải hủy bỏ chế độ cộng sản mà họ đã áp đặt lên người dân miền Bắc.
Họ
không nên nhắm mắt và tự bịt tai. Họ phải học hỏi để hiểu cho ra rằng,
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và Dân tộc Việt Nam không bao giờ chấp nhận
cuộc bầu cử không có sự tự do và chân thành.
Nguyễn Hội
Sưu tầm và dịch từ văn bản tiếng Đức „Erklärung der Regierung der Republik Vietnam von 26. April 1958 über die Frage der Wiedervereinigung“ do văn phòng Sứ Thần VNCH tại CHLB Đức xuất bản năm 1958.
[1] bản tiếng Đức ghi là dẫy núi An Nam
[2] nguyên văn tiếng Đức là: Họ không được buộc dân chúng phải cất tiếng hát những bài ca tụng họ trong các bưu thiếp“
http://phamvietdao2.blogspot.com/
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét