NĐD

http://hoiquanphidung.com/CBN/index.php?news=215


Harriman: 

Người quyết định số phận của Ngô Đình Diệm


image  
William Averell Harriman (Ảnh:Wiki)



Những tài liệu mật của văn khố Hoa Kỳ được giải mã cho đến nay cũng đã đủ để cho chúng ta thấy rõ rằng sở dĩ chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ là vì chống lại chính sách “trung lập hóa” Lào của Hoa Kỳ và không cho Hoa Kỳ đổ quân vào miền Nam Việt Nam. Người quyết định và thực hiện cuộc lật đổ này không phải là Tổng Thống Kennedy hay Ngoại Trưởng Dean Rusk mà là Averell W. Harriman, Phụ Tá Ngoại Giao về Đông Nam Á Sự Vụ! Phật giáo đã được xử dụng như là một công cụ, rồi sau đó bị loại bỏ với những hậu quả thê thảm còn kéo dài đến ngày nay!

Nhân dịp Hội Ái Hữu Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại tổ chức kỷ niệm 50 năm ngày ông Diệm về chấp chánh và tưởng niệm những người đã hy sinh vì chính nghĩa quốc gia, chúng tôi xin trình bày những nét chính về sự kiện nói trên. Toàn bộ tài liệu liên hệ sẽ được trình bày tỉ mỉ trong một cuốn sách sắp xuất bản.

I.- LỜI XÁC NHẬN CỦA MỘT NHÂN VẬT CÓ THẨM QUYỂN

Trong cuốn “From Trust to Tragedy” (Từ Tín Nhiệm đến Thảm Kịch) ông Frederick Nolting, cựu Đại Sứ Hoa Kỳ tại VNCH, đã viết:

Averell Harriman, đặc sứ của Tổng Thống Kennedy trong cuộc thương thuyết về Lào từ 1961 đến 1962, trở thành Phụ Tá Bộ Trưởng Ngoại Giao Đông Nam Á Sự Vụ năm 1962 và sau đó là Thứ Tưởng Ngoại Giao về Vấn Đề Chính Trị. Ông ta trở thành một viên chức hàng đầu của Bộ Ngoại Giao giải quyết vần đề Việt Nam trong đầu thập niên 1960s. Mặc dầu công việc lâu dài và đặc biệt của ông đối với quốc gia chúng ta là trên những lãnh vực khác, Harriman đã phán đoán và lãnh đạo chính sách về Đông Nam Á, theo ý kiến của tôi, là tai hại. Âm mưu “trung lập hóa” Lào của ông ta là một sự thất bại thê thảm, và sự thù nghịch ngày càng gia tăng giữa ông với Tổng Thống Ngô Đình Diệm và gia đình của ông ta trở thành một yếu tố chủ yếu trong việc lật đổ ông Diệm. Tuy nhiên, thanh thế và ảnh hưởng của Harriman ở Washington lớn đến nổi trở thành quyết định trong các hành động cốt yếu mà chính phủ chúng ta đã thực hiện trong năm 1963.”

Quả thật đúng như vậy. Tổng Thống John F. Kennedy mới lên nhận chức ngày 21.1.1961, mặc dầu chưa nắm vững tình hình và chưa có chút kinh nghiệm nào trong việc đối phó với Cộng Sản Việt Nam, ông đã nghĩ ngay đến việc giải quyết vấn đề Đông Dương theo phương thức của ông. Kennedy chủ trương phải hình thành một nước Lào độc lập và trung lập, và coi đó là “vấn đề số phận của chính họ.” Việc thưc hiện trung lập hóa Lào được trao cho Averell Harriman, một người bạn thân của ông. Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nhất là ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, đã tìm cách chống lại chủ trương này khiến Harriman gặp nhiều khó khăn. Harriman đã phải dùng quyền lực của một cường quốc để áp đặt giải pháp đó. Kết quả, giải pháp trung lập hóa Lào đã thất bại thê thảm. Sự bất đồng giữa Harriman và chính phủ Ngô Đình Diệm ngày càng trở nên nghiêm trọng. Harriman đòi hỏi phải loại bỏ Ngô Đình Nhu ra khỏi chính quyến. Khi biết rằng không thể tách Ngô Đình Nhu ra khỏi Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Harriman quyết định loại cả hai. Sau đây là diễn biến của biến cố này.

II.- TRUNG LẬP HÓA LÀO BẰNG MỌI GIÁ

Averell W. Harriman sinh năm 1891, tốt nghiệp Yale University, từng là Đại Sứ Hoa Kỳ tại Liên Sô (1943) và Anh (1946), Thống Đốc New York (1955-1959), Đại Sứ Toàn Quyền của Hoa Kỳ (1960-1961). Ông được coi là “kiến trúc sư của chính sách Chiến Tranh Lạnh” (architect of Cold War policy) của Hoa Kỳ. Có lẽ thấy ông có nhiều hiểu biết và kinh nghiệm về đối đầu với Cộng Sản nên Tổng Thống Kennedy đã chọn ông để giải quyết vấn đề Lào. Tuy nhiên, ông đã vi phạm nhiều sai lầm với những hậu quả rất tai hại.

Ngày 29.11.1961, Harriman được chính thức bổ nhiệm làm Phụ Tá Ngoại Giao về Đông Nam Á Sự Vụ và ngày 4.12.1961 ông nhận chức. Tháng 8 năm 1963 ông được thăng lên Thứ Trưởng Ngoại Giao đặc trách về Chính Trị Sự Vụ (Political Affairs) với quyền hạn rộng lớn hơn. Được Tổng Thống Kennedy tín nhiệm, ông đã thao túng chính sách của Hoa Kỳ về Đông Dương thời đó.

1.- Hai cách nhìn khác nhau

Tổng Thống Kennedy và Harriman quan niệm rằng “trung lập hóa” Lào, tức thành lập tại đó một chính phủ trung lập do Souvanna Phouma lãnh đạo, cai trị toàn lãnh thổ Lào, kể cả các vùng do Phathet Lào kiểm soát. Tất cả các lực lượng ngoại nhập đều phải rút ra khỏi Lào và không được xử dụng lãnh thổ Lào vào các mục tiêu quân sự.

Trong khi đó, Cộng Sản lại quan niệm khác hẳn. Cộng Sản coi “trung lập hóa” Lào là một hình thức trói tay Hoa Kỳ và VNCH lại để họ tự do dùng con đường mòn Hồ Chí Minh ở phía đông Lào đưa quân đội, vũ khí và quân dụng vào đánh chiếm miền Nam Việt Nam.

Như vậy, cả Hoa Kỳ lẫn Cộng Sản đã quan niệm “trung lập hóa” Lào như là một giải pháp tối ưu đối với họ. Trong khi đó, chính phủ Ngô Đình Diệm tin rằng sau khi trung lập hóa Lào, tình hình sẽ xấu hơn, quân Bắc Việt sẽ dùng lãnh thổ Lào để xâm nhập vào miền Nam Việt Nam một cách dễ dàng hơn mà Souvanna Phouma không thể ngăn cản được. Vì thế, nhiều cuộc cãi vã đã xẩy ra giữa Harriman và Ngô Đình Nhu. Hai bên trở thành đối thủ không đội trời chung!

Ngoài sự bất bình với chủ trương trung lập hóa Lào của Tổng Thống Kennedy, chính phủ Ngô Đình Diệm còn bất bình với ông Elbridge Durbrow, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, một người luôn muốn hành xử quyền Đại Sứ như một Toàn Quyền Đông Dương của Pháp ngày xưa, nên việc thuyết phục chính phủ VNCH tham dự hội nghị Gevève về vấn đề Lào khá rắc rối. Trước tình trạng đó, Tổng Thống Kennedy muốn chỉ định Tướng Edward G. Lamsdale làm Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn thay Elbridge Durbrow, nhưng Ngoại Trưởng Dean Rusk bác bỏ. Vì thế, Tổng Thống Kennedy đã cử ông Frederic. E. Nolting. Ông đã đến Sài Gòn nhận chức vào ngày 8.5.1991.

Đại Sứ Frederick E. Nolting kể lại rằng thỉnh thoảng trong cuộc thương thuyết, Washington có hỏi quan điểm ông về các hiệp ước Lào đang được triển khai. Ông đã trình cho Washington rằng quan điểm của ông cũng như quan điểm của Việt Nam Cộng Hòa. Ông đã trình bày vấn đề này với chính cá nhân Harriman trong các cuộc họp của các đại sứ vùng tại tại Bangkok (Thái Lan) và Baguio (Phi Luật Tân). Harriman nói với ông rằng ông ta đã có “cảm nghiệm tường tận” (fingertips feeling) rằng Liên Sô sẽ bắt buộc (Hà Nội) thi hành các thỏa ước. Sự hiểu biết tường tận của ông là do đã từng phụ trách các công việc về Liên Sô. Mặc dầu vậy, ông Nolting đã trả lời Harriman rằng sự biết rõ tường tận của ông ta hoàn toàn trái ngược. Trong một cuộc thảo luận khác, Harriman đã nói với ông rằng Tổng Thống Kennedy đã “chỉ đạo” cho ông ta phải đạt tới “một giải pháp ngoại giao” về Lào, nên ông phải làm như vậy. Khi ông Nolting hỏi Harriman rằng Tổng Thống có biết về các điều khoản của hiệp ước và những sự thiếu bảo đảm an toàn trong hiệp đó hay không, Harriman không trả lời trực tiếp, nhưng nói: “Ông đang làm việc cho Kennedy chứ không phải làm việc cho Thượng Đế”. Ông Nolting lại hỏi Harriman rằng ông ta có đọc những tường trình của ông khi được lệnh làm việc với chính phủ Nam Việt Nam và xét đến quan điểm của chính phủ ấy hay không, Harriman nói rằng ông ta không đọc, nhưng ông ta biết ông ta đang làm gì.

2.- Gặp khó khăn với các phe phái Lào.

Sau nhiều cuộc vận động ngoại giao, ngày 16.5.1961 Hội Nghị Quốc Tế Giải Quyết Vấn Đề Lào (The International Conference on the Settlement of the Laotian Question) đã được khai mạc tại Genève với sự tham dự của 14 nước: Hoa Kỳ, Liên Sô, Anh, Pháp, Canada, Ấn Độ, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Việt Nam Cộng Hòa (Nam Việt Nam), Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt Nam), Thái Lan, Cam-bốt, Miến Điện, Ba Lan và Á Nhĩ Lan. Nga Sô và Anh đồng chủ tọa.

Tuy nhiên, khi hội nghị bắt đầu khai mạc, Thủ Tướng Souvana Phouma tuyên bố chính phủ ông là đại diện chính thức của Lào, do đó nếu có đại diện phe hữu của Hoàng Thân Phoumi Nosavan và phe tả Pathet Lào của Hoàng Thân Souphanouvong tại hội nghị, chính phủ của ông sẽ không tham dự.

Do sự thuyết phục và áp lực của Hoa Kỳ, ba Hoàng Thân Souvanna Phouma (trung lập), Soupha nouvon (Pathet Lào) và Tiao Boun Oum (phe hữu) đã họp tại Zurich, Thụy Sỹ, từ 11 đền 23.6.1961. Kết quả: Cả ba đồng ý sẽ thành lập một chính phủ liên hiệp và Thủ Tướng Souvana Phouma chấp nhận sự hiện diện của hai phe kia tại hội nghị Genève: Ngoại Trưởng Quinim đại diện phe trung lập của Souvanna Phouma, Phoui Sananikone đại diện phe hữu của Phoumi Nosavan, còn Phoumi Vongvichit đại diện phe tả Pathet Lào.

3.- Đối đầu với VNCH

Khi hội nghị Genève bắt đầu, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng không chịu tham dự, nhưng do áp lực của Hoa Kỳ, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã phải cử Ngoại Trưởng Vũ Văn Mẫu dẫn một phái đoàn đến dự. Phái đoàn Bắc Việt do Ngoại Trưởng Ưng Văn Khiêm cầm đầu.

Tháng 7 năm 1961, Hoàng tử nước Moroco là Moulay Hassan lên ngôi kế vị cha, được gọi là Hoàng Đế Hassan II. Nhân dịp này, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã cử ông Ngô Đình Nhu, Cố Vấn Chính Trị của Tổng Thống, đại diện chính phủ VNCH đi dự lễ đăng quang này với mục đích tạo cơ hội cho ông Nhu ghé Genève thảo luận với ông Harriman về vấn đề trung lập Lào. Ông Nhu đã ghé qua Pháp và cũng Giáo sư Bửu Hội đến Rabat dự lễ. Sau đó ông trở lại Pháp rồi cùng ông Cao Xuân Vĩ và người con gái là cô Ngô Đình Lệ Thủy bí mật đền Genève gặp Harriman khi đó đang tham dự hội nghị trung lập Lào tại đây.

Ông Cao Xuân Vĩ kể lại rằng, theo chương trình, ông Harriman chỉ chịu tiếp ông Nhu trong vòng nửa tiếng. Ông và cô Ngô Đình Lệ Thủy không được tham dự. Nhưng cuộc nói chuyện đã kéo dài đến 3 tiếng đồng hồ. Khi Harriman tiển ông Nhu ra cửa phòng, ông thấy mặt hai người đều hầm hầm. Khi gặp ông Vĩ, ông Nhu lầu bầu: “Thằng cha này chẳng hiểu gì hết!”. Ông Vĩ hiểu rằng Harriman không chịu bỏ chủ trương trung lập hóa Lào. Tối hôm đó ông Nhu bỏ không ăn tối.

Vì có sự bất đồng giữa Harriman và Ngô Đình Nhu, chính phủ VNCH đã rút phái đoàn VNCH khỏi hội nghị Genève. Trung tuần tháng 9 năm 1961, Harriman phải đích thân đến Sài Gòn để thảo luận lại với chính phủ Ngô Đình Diệm. Một cuộc họp đã diễn ra ngày 20.9.1961 tại một căn phòng nhỏ trong Dinh Gia Long.

Đại Sứ Nolting kể lại rằng ông Diệm đã trình bày qua một thông dịch viên. Ông giải thích cho Harriman một cách thẳng thắn tại sao ông không tin tưởng Cộng Sản sẽ thi hành hiệp ước sau khi ký kết. Ông lui lại chuyện Cộng Sản đã phản hội hiệp ước từ thập niên 1930s. Ông nói về kinh nghiệm của chính mình với Hồ Chí Minh và sự phản bội của Việt Minh đối với người anh của ông đã bị họ giết. Hồ sơ lịch sử được đưa ra khá dài và chính xác. Nó cho thấy rằng việc ký hiệp ước về Lào không có gì bảo đảm sẽ được thi hành.

Với những bằng chứng lịch sử và lý luận đó, ông Diệm đã cứng rắn chống lại chủ trương trung lập hóa Lào. Ông chẳng những không ủng hộ Souvanna Phouma mà còn muốn Hoa Kỳ và Tổ Chức Hiệp Ước Đông Nam Á (Southeast Asia Treaty Organization) chiếm thủ đô Vạn Tượng và các thành phố dọc theo sông Mekong ở nam Lào để ngăn chận sự xâm nhập của Cộng Sản từ miền Bắc. Đó không phải là một lập trường không hợp lý, nhưng khi đưa ra đề nghị này, chủ đích của ông Diệm là muốn chọc tức Harriman. Tuy nhiên, Harriman đã không thèm nghe và nhắm mắt lại. Ông xem ra đang ngủ. Ông Diệm chú ý đến thái độ này và hơi bực mình, nhưng vẫn tiếp tục độc thoại.

Đại Sứ Nolting ngồi gần Harriman trên một cái sofa, nhận thấy rằng ông ta đang trải qua một giấc mơ dài và mệt mỏi. Ông cố gắng làm cho ông ta chú ý. Cuối cùng, Harriman gắt gỏng: “Thưa Tổng Thống, tôi có “cảm nghiệm tường tận” (fingertips feeling) rằng Liên Sô sẽ thi hành các thỏa ước này và làm cho những người khác tuân theo thỏa ước đó. Tôi không thể đưa ra cho ngài bất cứ bảo đảo nào, nhưng có một điều rõ ràng là: nếu ngài không ký hiệp ước này, ngài sẽ mất hết viện trợ. Ngài phải chọn.” Sau đó, Harriman trở lại Genève.

Harriman cho rằng việc thuyết phục Sài Gòn khó hơn việc thuyết phục Hà Nội nhiều. Trong một lá thư viết cho John K. Galbraith, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Ấn Đô, Harriman nói rằng ông Diệm đã mất sự tin tưởng của quần chúng. Hoa Kỳ đã ngồi vào một chiếc thuyền chung khi chính quyền Eisenhower yểm trợ cho Phoumi ở Lào, hầu như không đứng về phía dân chủ. Ông nói rằng đã đến lúc “phải ra khỏi chính sách của Dulles là ủng hộ “những người mạnh” (strong man) bất kể... Sự ổn định hiện tại của những người mạnh của chúng ta không phải là kẻ chiến thắng về lâu về dài, ít ra ở Đông Nam Á.”

Đại Sứ Nolting cho biết, sau cuộc họp nói trên, ông được lệnh của Washington tìm cách thuyết phục ông Diệm, người vừa bị Harriman xúc phạm, ký vào hiệp ước trung lập Lào. Ông đã nói với ông Diệm rằng Tổng Thống Kennedy chỉ muốn thương thuyết để giải quyết vấn đề Lào mà thôi. Mặc dầu theo ý kiến của ông cũng như ông Diệm, đó là một hiệp ước không công bằng, không được bảo vệ, và có thể không thể thi hành được, nhưng có thể đó là một hiệp ước tốt nhất. Để duy trì đầy đủ sự yểm trợ của chính quyền Kennedy đối với nỗ lực tại Nam Việt Nam, tốt hơn cả là nên ký vào thỏa ước. Cuối cùng, ông Diệm đã ký vào thỏa ước.

Sau đó, Đại Sứ Nolting thấy rằng đó là một lỗi lầm đắt giá, nên ông đã đến gặp ông Diệm để nói lời hối tiếc vì đã thúc giục ông ta làm điều đó. Sau khi Hoa Kỳ rút viện trợ và cố vấn ra khỏi các nhóm đồng minh Lào, các bộ tộc người Mèo, Cộng Sản, nhất là Bắc Việt, đã không cần biết gì đến những điều khoản họ vừa ký kết.

4.- Hình thành chính phủ liên hiệp Lào

Với ba phe lâm chiến ở Lào, Harriman cũng gặp nhiều khó khăn trong việc thuyết phục họ chấp nhận thành lập một chính phủ liên hiệp. Harriman mở các cuộc họp với ba Hoàng Thân Souvanna Phouma, Boun Oum và Souphanouvong tại Zurich và Vientiane để tìm một sự thỏa hiệp. Nhưng Phoumi Nosavan cho rằng việc chọn Souvanna Phouma lãnh đạo chính phủ mới là một sự sai lầm. Cả Hoa Kỳ lẫn Thái Lan liền dọa dọa cắt đứt mọi viện trợ cho Phoumi nếu ông ta không chấp nhận điều kiện đó.

Tháng 3 năm 1962, Harriman phái William H. Sullivan và Michael V. Forrestal qua Lào để vận động các phe phái Lào, nhất là phe Tướng Phoumi, chấp nhận các đề nghị của Hoa Kỳ. Sau đó, chính Harriman đích thân đến Bangkok nhờ Thống Chế Sarit của Thái Lan triệu tập một cuộc họp với Hoàng Thân Phoumi tại Nong Khai, bên bờ sông Mekong, để thuyết phục tướng này. Tiếp theo, Harriman mở một cuộc họp gay go với Phoumi và nội các của ông ta tại Vạn Tượng. Phoumi lặp lại quan điểm của ông là chống lại việc chọn Phouma lập chính phủ mới. Cuộc họp chấm dứt mà không có kết quả nào.

Để biểu lộ sự bất khoan nhựợng của mình, Phoumi cho mở cuộc tấn công Nam Tha, một thành phố ở tây bắc Lào, mặc dầu vị trí đó không có giá trị chiến lược quan trọng nào. Nhưng khi bị quân Pathet Lào và Bắc Việt phản công, quân của Phoumi chạy về phía sông Mekong, để lại nhiều vũ khí. Phoumi tin rằng Hoa Kỳ và Thái Lan sẽ can thiệp, nhưng việc đó đã không xẩy ra. Cuối cùng, Phoumi chấp nhận một chính phủ liên hiệp do Phouma cầm đầu.

5.- Bị phái đoàn Bắc Việc coi thường

Tháng 6 năm 1962, vào một buổi sáng Chúa Nhật, Harriman và một nhà ngoại giao trẻ là William H. Sulliam đã lén đến họp với phái đoàn Bắc Việt ở Genève để thăm dò quan điểm của Hà Nội. Harriman lái xe đến đậu bên lề đường gần ga xe lửa Genève. Để tránh các viên chức của phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa ở bên kia đường trông thấy, Harriman và Sulliam đi ngả cửa nhà bếp vào phía sau một khách sạn nhỏ do người Miến Điện xử dụng, rồi lên cầu thang để đến gặp Ngoại Trưởng Ưng Văn Khiêm và Đại Tá Huỳnh Văn Lâu của Bắc Việt. Họ đang chờ hai ông.

Khi uống trà, Harriman nói rằng trong thời gian chiến tranh, cá nhân ông có nghe nói Đồng Minh chống lại việc Pháp trở lại Đông Dương, nhưng sau đó Hoa Kỳ không làm gì cả để ngăn chận việc này. Ưng Văn Khiêm nói rằng ông cũng có nghe như vậy và rất ngạc nhiên khi thấy Hoa Kỳ chấp thuận việc Pháp trở lại các thuộc địa cũ. Sau đó họ bàn về chuyện tương lai. Mặc dầu đây là một cuộc nói chuyện riêng tư, nhưng Ưng Văn Khiêm không thừa nhận có quân Bắc Việt tại Lào hay Nam Việt Nam, mà nói rằng chỉ có một ít “huấn luyện viên” đến giúp Lào theo lời yêu cầu của Thủ Tướng Souvanna Phouma. Khi Harriman hỏi rằng những người này có rút lui theo sự quy định của hiệp ước trung lập Lào hay không, Ưng Văn Khiêm nói rằng Hà Nội sẽ không làm gì “trái với hiệp ước”. Ưng Văn Khiêm hoàn toàn chối bỏ việc quân Bắc Việt xâm nhập vào miền Nam Việt Nam và cho rằng cuộc chiến hiện tại ở miền Nam là do dân miền Nam nổi dậy chống lại chế độ bù nhìn Ngô Đình Diệm. Harriman đã nhấn mạnh rằng sẽ không có hòa bình nếu Bắc Việt không chấm dứt sự xâm lăng.

Sau này Sulliam kể lại rằng Ưng Văn Khiêm mặc một bộ đồ kềnh càng kiểu Liên Sô, với thái độ hung dữ và khinh thường (brutal and contemptuous), còn Harriman có thái độ kiên nhẫn khác thường đối với tên côn đồ xấc láo nhỏ bé đó (marvelously patient with this insulting little thug). Harriman không hiểu rằng đại diện Bắc Việt không có thẩm quyền gì ngoài việc lặp lại “kinh nhật tụng” chống chế độ Sài Gòn mà họ đã học thuộc lòng. Do đó, cuộc thăm viếng chẳng đem lại kết quả gì. Ấy thế mà Harriman bảo rằng nói chuyện với Hà Nội dễ hơn nói chuyện với Sài Gòn!

III.- ĐÒI ĐƯA QUÂN MỸ VÀO MIỀN NAM

Trong khi Harriman lo thương thuyết để “trung lập hóa” Lào, ngày 11.5.1961, chính phủ Kennedy đã cử một phái đoàn do Phó Tổng Thống Lyndon B. Johson lãnh đạo, đến Nam Việt Nam quan sát tình hình và yêu cầu chính phủ Ngô Đình Diệm để cho quân đội Hoa Kỳ đến bảo vệ miền Nam.

Các nhà phân tích cho rằng chính phủ Kennedy tin tưởng sau khi “khóa tay Cộng Sản” bằng hiệp định “trung lập hóa” Lào, Hoa Kỳ sẽ đưa quân vào miền Nam để thanh toán quân nổi dậy tại miền Nam Việt Nam một cách nhanh chóng. Nhưng Tổng Thống Ngô Đình Diệm thấy trước rằng sự hiện diện của quân đội Mỹ tại miền Nam chẳng những sẽ không đánh bại được Cộng Sản mà còn làm cho miền Nam mất chủ quyền và mất chính nghĩa, nên ông đã khôn khéo từ chối.

Phái đoàn của Phó Tổng Thống Johnson vừa rời Việt Nam ngày 13.5.1961, ngày 15.5.1961 Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã viết cho Tổng Thống Kennedy một văn thư, trong đó có đoạn như sau:

Giờ đây, chúng tôi biết rằng, là một tiểu quốc, chúng tôi không thể thỏa mãn được đơn phương tất cả mọi nhu cầu phòng thủ từ nguồn tài chánh riêng của chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng hy sinh xương máu và nhân lực để cứu vãn xứ sở chúng tôi, và tôi biết rằng chúng tôi có thể trông cậy vào sự yểm trợ vật chất từ Quý đại quốc, một yểm trợ vô cùng thiết yếu để đạt được thắng lợi cuối cùng.”

Như vậy, cả hai kế hoạch của chính quyền Kennedy đưa ra để giải quyết chiến trường miền Nam đã bị chính phủ Ngô Đình Diệm phản đối vì cho rằng không có hiệu quả.

IV.- SỰ THẤT BẠI CỦA HIỆP ƯỚC LÀO

Ngày 22.6.1962, chính phủ liên hiệp Lào được thành lập gồm 3 chính đảng: trung lập 7 ghế, phe Phoumi 4 ghế, phe Pathet Lào 4 ghế và 4 ghế dành cho những người không thuộc đảng phái nào. Đây là chính phủ liên hiệp thứ hai của Lào.

Ngày 23.7.1962, Hiệp Ước Hòa Bình tại Lào đã được ký kết. Có 14 quốc gia đứng ra bảo đảm sự trung lập của Lào. Khi Tuyên Ngôn Trung Lập Lào được công bố, khoảng 666 cố vấn quân sự của Hoa Kỳ còn lại rút ra khỏi Lào. Souvanna Phouma được mời đến viếng thăm Washington.

Nhưng giải pháp của Averell W. Harriman đã thất bại rất thê thảm. Đến ngày 20.8.1962 là hết thời hạn 30 ngày để chỉ định các địa điểm triệt thoát quân đội ngoại quốc, Pathet Lào không chịu cho biết những nơi quân đội Bắc Việt đang đóng và nói rằng không hề có quân đội Bắc Việt trên đất Lào. Trước tình trạng này, Tướng Phoumi Nosavan không chịu bàn giao công việc tại các Bộ đã dành cho Phathet Lào.

Mặc dầu có sự tráo trở của phe Cộng Sản, ngày 29.9.1962, chính phủ Hoa Kỳ cho biết đã bắt đầu rút 800 cố vấn ra khỏi Lào và tố cáo hiện có khoảng 10.000 bộ đội Bắc Việt trên đất Lào. Đến ngày 4.10.1962, Hoa Kỳ cho biết chỉ còn lại 115 cố vấn đang chuẩn bị về nước, trong khi đó Bắc Việt chỉ mới rút có 5 người!

Vì chính phủ trung lập Lào tuyên bố công nhận chính phủ Hà Nội, ngày 8.11.1962, chính phủ VNCH quyết định đóng cửa Tòa Đại Sứ Sài Gòn tại Vạn Tượng và nhờ Tòa Đại Sứ Nhật Bản trông coi quyền lợi của Việt kiều trên đất Lào.

Ngày 28.11.1962, cả ba phe lâm chiến tại Lào thỏa hiệp về sự thống nhất quân đội. Tuy nhiên, đến ngày 18.4.1963, Thủ Tướng Phouma chính thức lên tiếng tố cáo Pathet Lào và Bắc Việt phá hoại chế độ trung lập Lào và yêu cầu chấm dứt giao tranh với quân đội Khong Le tại Cánh Đồng Chum.

Ngày 1.4.1963, Bộ Trưởng Ngoại Giao Quinim của chính phủ liên hiệp bị ám sát tại Vạn Tượng. Pathet Lào cho rằng thủ đô thiếu an ninh, đã rút các thành viên trong chính phủ của họ ra khỏi thủ đô. Sau đó, một loạt những biến động khác đã xảy ra. Một trong các phụ tá thân cận của Khong Le bị ám sát. Đại Tá Deuane ly khai khỏi nhóm Khong Le. Một máy bay tiếp tế của Hoa Kỳ bị nhóm ly khai của Đại Tá Deuane bắn rơi. Khong Le rút quân khỏi Khang Khay và thiết lập bộ chỉ huy mới ở Muang Souy trên bờ tây Cánh Đồng Chum.

Ngày 19.4.1963, quân của Phoumi tới bao vây Bộ Thông Tin và định bắt Bộ Trưởng Vongvichit, của Phathet Lào. Vongvichit bỏ trốn. Thủ Tướng Phouma kêu gọi Anh và Nga can thiệp.

Khi các đơn vị đặc biệt của Việt Nam Cộng Hòa rút khỏi Nam Lào theo khuyến cáo của Mỹ, Hà Nội bắt đầu đẩy mạnh việc khai thông con đường mòn Hồ Chí Minh trên đất Lào. Theo báo cáo của CIA, sau khi Lào tuyên bố trung lập, khoảng 7.000 bộ đội Bắc Việt chẳng những không chịu rút khỏi Lào mà còn bành trướng thêm. Chế độ trung lập tan rả. Hoa Kỳ quyết định can thiệp bằng quân sự vào Lào trở lại. Ngày 26.4.1963, Hoa Kỳ tuyên bố chuẩn bị đổ quân vào Thái Lan.

Trong năm 1963, chính quyền Kennedy lại cho phép CIA huấn luyện và trang bị cho khoảng 20.000 quân HMong để chống lại quân Bắc Việt lẫn Pathet Lào. Các nhà phê bình thường coi sự nhượng bộ của Harriman như là một lỗi lầm định mệnh, mở đường cho Bắc Việt xâm nhập miền Nam và gọi con đường đó là “Xa lộ Averell Harriman” (The Averell Harriman Highway), tức Đường Mòn Hồ Chí Minh.

V.- QUYẾT LẬT ĐỔ NGÔ ĐÌNH DIỆM

Sau sự thất bại của hiệp ước “trung lập hóa” Lào, sự xích mích giữa chính phủ Ngô Đình Diệm và Harriman ngày càng gia tăng. Harriman và tay chân bộ hạ của ông tìm cách lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm.

Tháng 6 năm 1962, Roger Hilsman, Giám Đốc Phòng Tình Báo và Nghiên Cứu của Bộ Ngoại Giao đến Việt Nam quan sát tình hình và trở về gởi cho Harriman một báo cáo mang số RFE-27 ngày 18.6.1962 dưới đề mục “Phúc Trình Tiến Triển về Nam Việt Nam”. Bản báo cáo nhận định rằng “Kế Hoạch Bình Định Delta” (Delta Pacification Plan) do sự hướng dẫn của Phái Bộ Cố Vấn Anh (British Advisory Mission) trong chương trình ấp chiến lược đang tiến triển tốt đẹp. Nhưng Hilsman than phiền rằng mặc dầu đã có sự phát triển các đơn vị Biệt Động Quân tại vùng Cao Nguyên, không có bằng chứng nào cho thấy các đơn vị này đang được xử dụng ở mức độ đáng kể để hành quân trong vùng biên giới Việt - Lào. Hình như Hilsman không biết rằng các cuộc hành quân tại vùng này đã được giao cho Biệt Kích Dù thực hiện dưới danh nghĩa “Hành Quân Lôi Vũ”? Tuy nhiên, ở phần kết luận, Hilsman đã nói: “không có bằng chứng nào yểm trợ cho một vài tố cáo về sự tan rã chủ yếu về tình trạng chính tri và quân sự tại Việt Nam, trái lại, có bằng chứng về sự tiến bộ đáng phấn khỏii trong việc yểm trợ chiến đấu có hiệu quả của các lực lượng quân sự và an ninh.”

Thế nhưng, chưa đầy hai tháng sau, vào tháng 8 năm 1962, khi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cử Joshep A. Mendenhal, một thành viên trong Toán Việt Nam của Harriman đến Việt Nam nghiên cứu tình hình thì mọi sự đã bị mô tả ngược lại.

Trong bản phúc trình ngày 16.8.1962 gởi cho Averell W. Harriman, Mendenhal đã nêu ra những điểm chính như sau: Việt Cộng đã gia tăng hoạt động tại Nam Việt Nam. Cuối năm 1959 có khoảng 2.000 quân, nay đã lên tới 20.000 quân, bởi vì chính phủ Ngô Đình Diệm không hữu hiệu và được lòng dân. Ông cho rằng “chúng ta không thể thắng cuộc chiến với các phương pháp của Diệm - Nhu” (we cannot win the war with the Diem - Nhu methods). Ông khuyến cáo phải bỏ ông Diệm, ông Nhu, bà Nhu và những thành phần còn lại của gia đình nhà Ngô, và thay thế bằng những nhóm khác như: (1) hoặc Phó Tổng Thống Thơ và Tướng Dương Văn Minh; (2) hoặc Tướng Lê Văn Kim và Tướng Dương Văn Minh nếu Phó Tổng Thơ từ chối; (3) hoặc Trần Quốc Bửu, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công Thiên Chúa Giáo, vì ông ta có tư cách của một nhà chính trị tốt và biết làm thế nào để gây ảnh hưởng trong quần chúng. Muốn vậy phải tổ chức đảo chánh.

Mendenhal nhấn mạnh rằng cuộc đảo chánh phải nằm trong tay Hoa Kỳ, nhưng tránh đừng để dân chúng nghĩ rằng tân chính phủ là bù nhìn của Hoa Kỳ. Ông nói: “Vì chúng ta đã bị tố cáo là liên lụy đến cuộc đảo chánh ngày 11.11.1960 và cuộc ném bom Dinh Độc Lập năm 1962, nên các viên chức Hoa Kỳ phải âm thầm chọn lựa những người Việt Nam có khả năng làm đảo chánh (như Nguyễn Ngọc Thơ và Dương Văn Minh) và cho biết sẵn sàng ủng hộ một cuộc đảo chánh trong thời gian thích hợp. Chúng ta đứng đàng sau làm cố vấn, còn để cho người Việt thực hiện tất cả.”

Mendenhal nói rằng mục tiêu của cuộc đảo chánh là bắt giữ ngay lập tức ông Diệm và hai vợ chồng ông Nhu rồi đưa họ ra ngoại quốc ngay nếu trong tiến trình bắt giữ họ còn sống.

Đọc toàn bộ nội dung bản phúc trình này, chúng ta thấy hầu hết các đề nghị của Mendenhal đã được thi hành trong cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 và sau đó!

Khi được biết, với sự giúp đỡ của Pháp, chính phủ Ngô Đình Diệm đang tìm cách hòa hoãn với Bắc Việt để thoát ra khỏi áp lực của Hoa Kỳ, trong bản thông báo số 2352/63 đề ngày 14.9.1963, dưới tiêu đề “The possible of a GVN Deal with North Viet Nam”, CIA đã viết như sau: “Theo nhận định của chúng tôi (CIA), trở ngại không phải là việc Diệm hay Nhu “chuyển qua” (going over) phe Hồ... Sự nguy hiểm là ở chỗ Diệm và Nhu quan tâm đến những quyền lợi riêng của quốc gia họ...” (In our view, the problem is not one of Diem or Nhu’s “going over” to Ho... Instead, the dangers lie in the fact that Diem and Nhu consider their own interests to be those of their country...)

Harriman và các tay chân bộ hạ đã hình thành một kế hoạch đảo chánh rất chu đáo và tinh vi để lật đổ và tàn sát gia đình họ Ngô. Vụ Phât Giáo xẩy ra ngày 8.5.1963 chỉ là một trong những bộ phận của kế hoạch này. Đây là vấn đề sẽ được chúng tôi trình bày trong những bài khác.

 ***************************
 

 Ông Ngô Đình Nhu Bí Mật Gặp Ông Phạm Hùng Ở Khu Rừng Tánh Linh Bình Tuy

theo lời kể của Ông Cao Xuân Vỹ

 


Ô. Cao Xuân Vỹ, TT. Ngô Đình Diệm &
Ô. Ngô Đình Nhu
 
Như đã hứa, (1)  ông Cao Xuân Vỹ, sau ba lần vào cấp cứu và điều trị tại bệnh viện, đã vui lòng dành cho chúng tôi một cuộc phỏng vấn để cống hiến bạn đọc một số hồi ức và kỷ niệm của ông trong thời gian đi theo Việt Minh kháng chiến rồi về hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm với tư cách là người phụ tá thân cận của ông Ngô Đình Nhu, bào đệ và là cố vấn chính trị của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

1. Hỏi: Thưa ông, nghe nói ông cùng quê Nghệ An với ông Hồ Chí Minh?
Đáp: Phải. Tôi người làng Thịnh Mỹ, phủ Diễn Châu ở về phía biển, còn ông Hồ ở xã Kim Liên huyện Nam Đàn về phía núi.

2. Hỏi: Ông có thể cho biết gia đình ông có liên hệ gì với gia đình ông Hồ không?
Đáp: Tôi được biết ông cố tôi là cụ Cao Xuân Dục, thượng thư bộ học thuộc triều đình Huế có giúp đỡ thân phụ ông Hồ là Nguyễn Sinh Sắc về tài chính và khuyến khích, giúp đỡ ông ấy nhiều trong việc học hành để có thể đi thi và đậu phó bảng. Một phần vì ông Nguyễn Sinh Sắc là bạn học với ông nội tôi là Cao Xuân Tiếu. Đây là hình căn nhà ông nội tôi cho ông cử Sắc. (Ông Vỹ đưa xem hình căn nhà.)

3. Hỏi: Có tài liệu của phía Cộng Sản, như của Sơn Tùng và Nguyễn Đắc Xuân nói, khi thấy ông Nguyễn Sinh Sắc thi hỏng khoa Ất Mùi, (năm 1895), ông Cao Xuân Dục đã giúp cho ông Nguyễn Sinh Sắc được vào Huế, để có phương tiện và đủ sách vở hầu tiếp tục việc học và có thể thành đạt. Điều này có đúng không?
Đáp: Đúng. Ông cố tôi còn can thiệp để cho ông Nguyễn Sinh Sắc, dù không phải là con quan cũng được vào học ở Quốc Tử Giám. Đến khoa thi năm Tân Sửu (1901) chánh chủ khảo Cao Xuân Dục thấy khóa sinh Sắc không trúng tuyển đã cho lệnh xét lại bài thi của 4 thí sinh để rồi xin vua Thành Thái cho ông ta đậu phó bảng. Khóa ấy có 9 tiến sĩ, 13 phó bảng. Ông Sắc đậu phó bảng thứ 11.
 
4. Hỏi: Hồi còn nhỏ ông có biết về hoạt động của Cộng sản ở quê nhà và có chứng kiến các cuộc nổi dậy của Cộng Sản thường được gọi là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh không?
Đáp: Có. Phong trào này mạnh nhất ở hai huyện Nam Đàn và Thanh Chương. Nhiều người bị chết oan. Cộng Sản đã giết hai tri phủ. Vì thế phản ứng của chính quyền bảo hộ cũng rất quyết liệt. Pháp đem bom thả cũng giết nhiều người, trong số ấy có cả Cộng Sản lẫn thường dân. Cha tôi có kể lại rằng để đối phó với phong trào này, ông Nguyễn Hữu Bài, thượng thư bộ Lại của Triều Đình Huế, (tương đương với chức thủ tướng thời nay), đã cho áp dụng một kế hoạch chiêu dụ Cộng Sản khá thành công. Lúc ấy ông cố tôi cùng ở trong nội các Nguyễn Hữu Bài.

5. Hỏi: Khi Việt Minh cướp chính quyền ông ở đâu? và có ủng hộ họ không?
Đáp: Lúc ấy tôi đang học ở Hà Nội. Tôi nhớ là mấy tháng trước khi Việt Minh cướp chính quyền, thanh niên sinh viên Hà Nội chúng tôi rất hăng hái ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim, vì là chính phủ của Việt Nam độc lập đầu tiên, dù phải nhờ có người Nhật lật đổ người Pháp. Nhưng chúng tôi rất phấn khởi và đã ủng hộ hết mình. Tiếc rằng bỗng nhiên chính phủ này từ chức ngày 7 tháng 8 (1945). Thật khó hiểu. Tuy từ chức nhưng chính phủ Trần Trọng Kim vẫn xử lý theo lệnh nhà vua. Khi mà Việt Minh tới trám vào chỗ trống chính trị này thì chúng tôi đã đi theo Việt Minh. Chúng tôi không biết Việt Minh là Cộng Sản. Thực ra lúc ấy chả mấy người biết Việt Minh là Cộng Sản.

6. Hỏi: Ông có gặp ông Hồ bao giờ không?
Đáp: Có. Hồi ấy tôi ở trong phong trào thanh niên sinh viên tranh đấu. Chúng tôi được hai ông Hoàng Minh Giám và Phan Mỹ giới thiệu để gặp ông Hồ ở Bắc Bộ Phủ. Lúc ấy ông ấy có cái vẻ bề ngoài rất ân cần và dễ mến. Về sau tôi mới hiểu tại sao ông ấy đã chiêu dụ được nhiều người đi theo ủng hộ Việt Minh. Cho đến giờ này tôi vẫn nghĩ ông ta thật là thông minh và xảo quyệt. Lại được tay Võ Nguyên Giáp cũng rất thông minh trợ tá đắc lực. Tôi học với Võ Nguyễn Giáp 4 năm, Tôi biết ông ta rất rõ. Ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã tỏ ra sắc sảo và quả đoán… Rất “độc tài”. Nhưng dầu sao Võ Nguyên Giáp không thể sánh được với Ngô Đình Nhu. Còn Phạm Văn Đồng thì không đáng là học trò Ngô Đình Nhu.

7. Hỏi: Rồi tại sao ông lại bỏ Việt Minh?
Đáp: Vì chúng tôi kết án ông Hồ đã ký thỏa ước mồng 6 tháng 3, nhượng bộ Pháp quá nhiều. Hơn nữa họ đã hãm hại nhiều người yêu nước bất đồng chính kiến. Chúng tôi chạy sang phía Việt Cách của các ông Nguyễn Hải Thần và Nghiêm Kế Tổ…

8. Hỏi: Khi nào thì các ông rời Hà Nội?
Đáp: Liền khi cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ ngày 19-12-46. Lúc ấy ông Hồ và đại bộ phận Việt Minh chạy lên Việt Bắc kháng chiến. Thì chúng tôi gồm 36 nhà trí thức và thanh niên sinh viên tranh đấu chạy vào khu Tư, gồm Thanh Nghê Tĩnh, để cùng với một số Việt Minh ôn hòa lập một phòng tuyến mới phi Cộng Sản chống thực dân và giúp dân mở mang về kinh tế và văn hóa. Có thể nói Liên Khu Tư lúc ấy như là một khu tự trị.

9. Hỏi: Ông có thể cho biết tên một số trong 36 nhà trí thức mà ông bảo đã rời Hà Nội vào Liên Khu Tư sau kháng chiến bùng nổ không?
Đáp: Tôi còn nhớ chẳng hạn có Luật Sư Trần Chánh Thành, các ông Trần Hữu Dương, Hồ Đắc Điềm, Phạm Thành Vinh, sau này trở thành rể của ông Hồ Đắc Điềm, ông Nguyễn Duy Quang, người của ông Bảo Đại, ông Phan Huy Xương, anh của bác sĩ Phan Huy Đán tức Phan Quang Đán, ông Tôn Thất Trạch v.v… Các ông này về sau đã hợp tác với thủ tướng Ngô Đình Diệm. Ông Trần Chánh Thành từng là bộ trưởng phủ thủ tướng, với ông Tôn Thất Trạch là đổng lý văn phòng. Ngoài ra, về phía thường dân tôi nhớ còn có bà Hòa Tường là một thương gia giầu có ở phố Hàng Đào cũng đi theo.
Tôi xin nói thêm ông biết điều này, là những vị này và tôi hồi đầu theo Việt Minh. Nhưng tất cả đều không phải Cộng Sản. Và ngay từ 1930 thì đã có hai phe cùng chống Pháp một bên là Đảng Cộng Sản, lúc ấy chưa có Việt Minh. Một bên là các nhân vật và tổ chức quốc gia phi Cộng Sản trong đó ngoài những người như ông Ngô Đình Diệm đã bắt đầu hoạt động từ đó, còn có các chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng, mà đảng trưởng là Nguyễn Thái Học và 13 đồng chí đã bị Pháp xử bắn.


ông Ngô Đình Nhu

10. Hỏi: Khi nào ông rời Liên Khu Tư vào Sài Gòn và gặp ông Ngô Đình Nhu?
Đáp: Chúng tôi rời Liên Khu Tư ra Hà Nội. Chứ chưa vào Sài Gòn. Lúc ấy là vào khoảng đầu năm 1953. Ông Hồ Chí Minh theo lệnh Stalin và Mao Trạch Đông khỉ sự chuẩn bị mở chiến dịch Giảm Tô và cải cách ruộng đất. Có người thân trong Việt Minh cho chúng tôi biết. Nên tìm đường chạy trước. Về sau trong họ tôi có nhiều người có chút tư điền bị đem ra đấu tố. Chị ruột tôi cũng bị giết. Tôi “dinh Tề” qua ngả Phúc Nhạc, Phát Diệm là khu an toàn tự trị dưới quyền trông coi của giám mục Lê Hữu Từ. Khó khăn lắm mới tới được Hà Nội. Hà Nội lúc ấy đang sống an bình dưới chính quyền Bảo Đại. Tôi đi thoát được là nhờ có người chú họ ở trong tổ chức Việt Minh cấp cho một giấy thông hành. Ở Hà Nội tôi gặp lại các ông Đặng Văn Sung, Phan Huy Quát từng hoạt động chung với chúng tôi thời 1945.
Trong thời gian còn ở Liên Khu Tư chúng tôi nghe biết cán bộ Cộng Sản trong tổ chức Việt Minh chịu ảnh hưởng rất lớn bởi cán bộ Trung Cộng. Sau khi Mao Trạch Đông chiếm trọn lục địa vào cuối năm 1949, ông ta đã bắt Hồ Chí Minh gửi một số lớn cán bộ Việt Cộng sang Tầu để tẩy não, cải tạo tư tưởng, bắt học tập chủ nghĩa Mao-ít. Vì cái chủ nghĩa này mà các chiến dịch giảm tô và cải cách ruộng đất đã đẫm máu với những vụ con tố cha, vợ tố chồng và nông dân tàn sát lẫn nhau thật rùng rợn. Làng tôi có ông hàn Lương biết mình sắp bị đưa ra đấu tố đã nhảy xuống giếng tự tử, vậy mà đội cải cách đã lôi xác ông lên để đấu cái thây ma. Chúng đánh nát bấy cái thây ấy. Tôi mong có người thâu thập những tin tức khắp nước về cuộc Cải Cách Ruộng Đất thời gian đó để cho mọi người biết Cộng Sản dã man chừng nào.

11. Hỏi: Khi nào thì ông gặp ông Ngô Đình Nhu?
Đáp: Cuối năm 1953. Tôi vào Sài Gòn thì gặp lại ông Trần Chánh Thành. Ông Thành giới thiệu tôi với ông Nhu. Ông Thành vào Sài Gòn năm 1952 cùng một lượt với phần lớn trong số 36 nhà trí thức đã vào Liên Khu Tư để kháng chiến chống Pháp nhưng bất hợp tác với Việt Minh. Lúc gặp lại tôi thì ông Thành đang làm cho tờ báo Xã Hội của ông Nhu, đồng thời tập sự luật sư với Luật Sư Trương Đình Du…

12. Hỏi: Theo chỗ chúng tôi biết thì ông Ngô Đình Nhu từng có 5 nhiệm vụ quan trọng: một là dân biểu Quốc Hội, hai là Cố Vấn Chính Trị của Tổng Thống, ba là thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, bốn là Tổng Bí Thư đảng Cần Lao Nhân Vị, và sau hết vào năm cuối cùng ông còn là chủ tịch ủy ban liên bộ về Ấp Chiến Lược. Vậy ông ấy có một lực lượng nhân sự nào đáng kể để giúp thi hành chừng ấy nhiệm vụ không? Ví dụ ông ấy có mấy văn phòng? Có bao nhiêu nhân viên được ăn lương?
Đáp: Ông ấy chỉ có một mình thiếu tá Phạm Thu Đường làm chánh văn phòng, thường được gọi là chánh văn phòng ông Cố Vấn. Và dưới quyền thiếu tá Đường chỉ có 5 nhân viên, hầu hết tự túc. Không có ngân khoản nào dành cho ông Cố Vấn. Và phải nói thực khó hiểu là chính chức Cố Vấn này cũng chẳng được một văn kiện nào bổ nhiệm hay quy định nhiệm vụ. Thực tế ông Nhu chỉ giúp việc cho riêng ông Diệm với tư cách là phụ tá cho Tổng Thống. Người ta thấy việc ông làm thì gọi ông là Cố Vấn vậy thôi. Vì thế ông không có quyền hạn và nhiệm vụ gì chính thức.
Còn về thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, thì ông chỉ thị cho chúng tôi, phải tự túc. Mọi đoàn viên đều tự nguyện và tự túc theo tinh thần cách mạng. Cho nên cũng chẳng có quyền lợi gì.
Về văn phòng dân biểu, ông cũng không có. Thực ra ông ấy rất ít đi họp Quốc Hội. Chỉ khi nào có vấn đề chính sách quan trọng như Ấp Chiến Lược chẳng hạn, hay vấn đề “Giáo Dục nhân bản”, vấn đề “kinh tế tư hữu cơ bản” v.v.. thì ông mới tới trình bày mà thôi. Cho nên mọi thứ một mình ông cáng đáng. Tôi thật phục sức làm việc của ông Nhu.

13. Hỏi: Thế còn chức chủ tịch ủy ban liên bộ về Ấp Chiến Lược thì sao? Có văn thư nào quy định không?
Đáp: Chức này thì có. Nhưng cũng chỉ là một thông tư của phủ Tổng Thống gửi đến các bộ, để việc ông chủ tọa các phiên họp Ủy Ban Liên Bộ được danh chính ngôn thuận. Ông Nhu quan niệm chương trình Ấp Chiến Lược là một cuộc cách mạng xã hội và chính trị, chứ không phải chỉ là một chiến lược để đối phó với sự xâm nhập và khủng bố của Cộng Sản mà thôi. Ông thúc đẩy các tỉnh trưởng khai hóa người dân quê theo tinh thần tam túc, nghĩa là tự túc về tư tưởng, tự túc về tổ chức và tự túc về kỹ thuật, để có thể làm chủ cuộc đời mình, làm chủ được xã hội, không bị lệ thuộc vào bên ngoài, vào ngoại bang. Ông để rất nhiều thì giờ đích thân soạn những bài thuyết trình có tính lý luận cao dành cho các cấp lãnh đạo chính phủ và cán bộ cao cấp, chỉ cho họ cách thức đưa những tư tưởng cao vào đầu óc thường dân qua những hình ảnh và ngôn ngữ bình dân dễ hiểu. Mục đích của ông là tiến dần tới một xã hội có tổ chức cao, có đầy đủ các phương tiện truyền thông, giao tế, kinh tế, văn hóa cao trong đó mỗi con người, “mỗi nhân vị”, đều được quan tâm đồng đều, chứ không biến con người thành những “cái đinh, con ốc” trong một guồng máy xã hội theo kiểu Cộng Sản. Ông tin tưởng rằng phương pháp đó về lâu về dài sẽ làm cho CS phải đầu hàng. Chứ không phải chỉ dựa vào những hàng rào giây kẽm gai. Dĩ nhiên ban đầu thì việc rào ấp là cần thiết để giữ cho Ấp Chiến Lược được an toàn trước sự phá hoại và tấn công của du kích CS. Quốc sách Ấp Chiến Lược mà thành công thì Cộng Sản sẽ thành cá bị tát ra khỏi ao, nằm trên đất.

14. Hỏi: Về đảng Cần Lao Nhân Vị, nó thành hình ra sao, và ai là những đồng chí cốt cán nhất của ông Nhu?
Đáp: Hai người cùng với ông Nhu sáng lập ra đảng Cần Lao Nhân Vị là các ông Trần Quốc Bửu và Huỳnh Hữu Nghĩa. Nhưng ban đầu các ông không gọi tên đảng là Cần Lao mà gọi là đảng Công Nông. Nhưng vì không muốn gợi ý về cái liên minh công nông của Cộng Sản, nên về sau các ông đổi ra là Cần Lao. Còn vế Nhân Vị thì sau nữa mới thêm vào theo đề nghị của ông Nhu. Ông Bửu, chủ tịch Liên Đoàn Lao Công có kinh nghiệm về đấu tranh nghiệp đoàn, đã quen ông Nhu khi còn ở bên Pháp. Và ông Huỳnh Hữu Nghĩa một tín đồ Cao Đài, là cố vấn chính trị của tướng Trình Minh Thế. Ông Nghĩa đã giúp ông Nhu chinh phục được tướng Thế, chứ không phải như có người Mỹ cho rằng ông Nhu có được ông Thế là nhờ đại tá Edward Lansdale. Ông Lansdale có can thiệp để quân của tướng Thế được hợp thức hóa và trả lương như Quân Đội Quốc Gia thì đúng. Người nào bảo Lansdale dùng tiền mua Tướng Thế là cố tình xuyên tạc để hạ uy tín của một vị tướng kiên cường anh dũng, thanh liêm mà anh em ông Diệm rất quý trọng. Khi nghe tin tướng Thế tử trận Tổng Thống Diệm đã ngất xỉu. Điều này tướng Lansdale có ghi trong hồi ký.
Văn phòng Tổng Bí Thư đảng Cần Lao cũng do một mình Thiếu Tá Phạm Thu Đường quán xuyến, kiêm nhiệm.


TT. Ngô Đình Diệm

15. Hỏi: Ông Ngô Đình Diệm có giữ vai trò gì trong đảng Cần Lao không?
Đáp: Không. Ông ấy hoàn toàn ở ngoài và trên đảng Cần Lao. Với ông Diệm chỉ có Tổ Quốc và Quốc Dân. Tôi còn nhớ khoảng năm 1956, Tổng Thống gọi tôi vào bảo tôi lên cao nguyên đèo heo hút gió để quan sát nghiên cứu tìm ra những địa điểm thích hợp để lập các khu dinh điền, hòng đưa người kinh lên trấn giữ địa điểm mà ông bảo là vô cùng quan trọng về mặt chiến lước. Tôi thấy mình đi thì ông Nhu thiếu một trợ lý. Lại cũng hơi ngán cảnh cô đơn ở nơi xa lạ. Tôi bèn thưa với Tổng Thống: Công tác đoàn thể của ông Cố Vấn đang thiếu người. Tổng Thống nói: Đoàn thể gì. Dẹp. Tuy nhiên rồi ông cũng đấu dịu. Cứ đi đi. Thỉnh thoảng tôi sẽ lên với anh… Cũng cần thêm rằng ông Diệm rất quan tâm đến vùng cao nguyên. Ông thường nói: giữ được cao nguyên thì giữ được miền Nam. Và ông tìm cách đưa nhiều cán bộ và những người dân có kinh nghiệm với Cộng Sản lên đó lập nghiệp.

16. Hỏi: Ông nghĩ gì về việc chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý truất phế ông Bảo Đại?
Đáp: Nhiều người chê ông Diệm, là nhà Nho mà bất trung, không giữ lời thề trung thành với cựu hoàng. Nhưng tôi thấy không đúng. Trước hết chính cựu hoàng bảo ông Diệm chỉ thề trước Thánh Giá trung thành với Tổ Quốc. Thứ nữa, khi cựu hoàng triệu ông sang Pháp, ông Diệm đã sẵn sàng lên đường, dù biết sang đó sẽ mất chức thủ tướng.
Nhưng chính nhóm liên khu Tư chúng tôi đã thuyết phục ông, gần như làm áp lực với ông, để ông bỏ ý định sang Cannes . Chúng tôi xúm vào yêu cầu ông ở lại lấy cớ tình hình không cho phép vắng mặt. Chúng tôi phải nói với thủ tướng rằng nếu Cụ bỏ chúng tôi lại mà đi một mình thì sinh mệnh chúng tôi ai sẽ lo? Chúng tôi đã bỏ tất cả vào đây là vì cụ, vì tin cụ sẽ bảo vệ phần đất tự do còn lại này, bảo vệ chúng tôi. Nay cụ nỡ lòng nào bỏ chúng tôi, bỏ đất nước này cho Thực dân, Cộng Sản? Rồi nhiều đoàn thể họp nhau lại đặt ông Diệm trước sự việc đã rồi là tự ý hạ bệ ông Bảo Đại. Cuộc trưng cầu dân ý của chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức sau đó chỉ là để hợp pháp hóa hành động của chúng tôi.

17. Hỏi: Có sử gia Mỹ bảo ngày 22 tháng 8 năm 1963, Thanh Niên Cộng Hòa đã tấn công chùa Xá Lợi cùng với Cảnh Sát và Lực Lượng Đặc Biệt. Điều này có đúng không?
Đáp: Hoàn toàn bịa đặt. Tổ chức này không phải để dùng vào những việc như vậy. Nó là tổ chức phi vũ trang mà.

18. Hỏi: Sử gia Mark Mayor viết trong tác phẩm Triumph Forsaken rằng gần ngày đảo chính, tỉnh trưởng Định Tường báo cáo với ông Nhu rằng đại tá Có là phụ tá của tướng Đính rủ ông ta làm đảo chính. Ông Nhu hỏi lại tướng Đính, thì tướng Đính xin đi chém đầu Có. Ông có biết vụ này không?
Đáp: Không cần tỉnh trưởng Định Tường báo cáo thì ông Nhu đã biết rồi. Nhưng ông muốn cứ để vậy để theo dõi.

19. Hỏi: Khi ông cùng ông Nhu đi gặp Phạm Hùng ở Bình Tuy, ông Nhu có cho ông biết hai người họ bàn chuyện gì không?
Đáp: Lúc ấy thì không. Chỉ biết chúng tôi cùng đến Quận Tánh Linh ở đây có một vùng do Cộng quân kiểm soát. Ban đầu cứ tưởng đi săn cọp như mọi khi. Nhưng đến nơi ông Nhu bảo chúng tôi ở ngoài, còn ông đi về phía trước độ vài trăm mét. Có Phạm Hùng chờ ở đó. Sau này về nhà tôi cũng không tiện hỏi ông Nhu. Nhưng qua những gì ông tự ý nói ra vào một lúc nào đó thì, nội dung câu chuyện trên một tiếng đồng hồ, gồm nhiều điều cho đến nay vẫn chưa được tiết lộ. Có một điều mà phía họ rất quan ngại, nếu không bảo là sợ, rất sợ chương trình Ấp Chiến Lược. Họ yêu cầu cho biết ai là người chủ trương và mục đích để làm gì? Ông Nhu trả lời: đó chỉ là một chủ trương của chính phủ nhằm bảo vệ sinh mạng và tài sản của người dân, ngăn ngừa sự xâm nhập, phá phách của du kích các ông… Các ông bảo cán bộ đừng tìm cách đánh phá làng xã, thì chúng tôi sẽ bỏ luật 10/59. Cán bộ các ông có thể về sống với dân lành tại các ấp…
Về các điều kiện để hiệp thương thì nhiều lần Tổng Thống Diệm đã nói, phải có 6 giai đoạn:
- Bắt đầu bằng việc cho dân hai miền trao đổi thư tín tự do.
- Rồi cho dân qua lại tự do
- Thứ 3 là cho dân hai bên được tự do chọn đinh cư sang bên kia nếu muốn
- Thứ 4 mới đến giai đoạn trao đổi kinh tế. Ví dụ miền Nam đổi gạo lấy than đá của miền Bắc chẳng hạn.
- Qua được các giai đoạn đó rồi mới tiến tới hiệp thương.
- Và sau cùng là tổng tuyển cử.
Có lần ông Nhu tính với chúng tôi: Ông dự đoán rằng, nếu cho dân tự do chọn nơi định cư, thì căn cứ theo tình trạng về tự do dân chủ tồi tệ và kinh tế kiệt quệ của miền Bắc lúc ấy, sẽ có khoảng 3 triệu người dân sẽ dần dần vào định cư ở miền Nam. Vì vậy “mình” phải chuẩn bị đất cho dân. Ông cũng tính rằng hiện dân số miền Bắc có tới 23 triệu, trong khi dân số miền Nam chỉ có 17 triệu. Nếu có được 3 triệu dân Bắc vào định cư ở miền Nam thì dân số 2 bên sẽ cân bằng. Bầu cử tự do, với sự giám sát của Quốc Tế thì chắc mình sẽ thắng.

20. Hỏi: Lần ông tháp tùng ông Nhu đi dự lễ đăng quang của quốc vương Ma-rốc năm 1962, ông có cho biết là sau đó các ông đến Paris gặp ông Pinay, đại diện Tổng Thống Charles De Gaulle, bàn chuyện hiệp thương với ông Hồ. Lúc ấy có mặt giáo sư Bửu Hội không?
Đáp: Dĩ nhiên là có. Vì Giáo sư Bửu Hội là đại sứ của VNCH ở Ma-rốc, và là bạn học với ông Nhu ở bên Pháp. Ông Bửu Hội lại từng là cố vấn cho Hồ Chí Minh. Nên trong việc này, có thể nói vai trò của ông Bửu Hội cũng quan trọng không kém ông Nhu. Ông Nhu và chúng tôi ở khách sạn Grillon cả tháng. Cuộc tiếp xúc xảy ra nhiều lần mà hầu như lần nào cũng có sự hiện diện của giáo sư Bửu Hội. Ông Nhu cho biết lúc ấy ông Hồ Chí Minh đã nhờ ông Jean Sainteny xin Tổng Thống De Gaulle giúp. Ông Hồ biết là ông De Gaulle đang có chủ trương trung lập Đông Dương, lại hận Mỹ đã “hất cẳng” Pháp. Ông Hồ nhờ Sainteny xin Tổng Thống De Gaulle can thiệp để tiếp xúc với Sài Gòn. Tổng Thống Pháp rất sốt sắng trong việc này. Sau chuyến đi này ít tháng thì xảy ra vụ ông Nhu “đi săn cọp” ở Tánh Linh.

21. Hỏi: Gần ngày đảo chính đại sứ Cabot Lodge có điện đàm với Tổng Thống Diệm. Lúc đó ông có ở bên cạnh Tổng Thống không?
Đáp: Không.

22. Hỏi: Trong cuốn Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cựu đại tá Nguyễn Hữu Duệ viết rằng ông ta xin phép Tổng Thống đem xe tăng thiết giáp lên bộ tổng Tham Mưu để bắt các tướng và dẹp đảo chính. Nhưng Tổng Thống không cho. Ông có biết chuyện này không?
Đáp: Lúc ấy tôi đang ở bên Tổng Thống Diệm và ông Nhu tại dinh Gia Long. Chính tôi nghe điện thoại của ông Duệ và trình lên Tổng Thống.
Tổng Thống la tôi: Các anh muốn gì? Ở với tôi bấy lâu mà không hiểu ý tôi sao? Dân Nghệ An các anh chỉ thích làm loạn. Đem quân đội chống quân đội là cách bảo vệ tổ quốc hả?
Tôi thưa: Nhưng người ta đánh mình thì mình phải đánh lại chứ Tổng Thống. Chẳng lẽ để phải chết sao?
Ông quát lên: Chết thì đã sao.
Đúng, đối với ông chết thì đã sao. Nhưng đối với chúng ta thì cái chết của ông là cái chết dần của miền Nam. Ông còn nói quân đội là để bảo vệ tổ quốc chứ không phải để bảo vệ cá nhân Tổng Thống.
Ông bảo tôi liên lạc với ông Trương Vĩnh Lễ, chủ tịch Quốc Hội yêu cầu cho triệu tập Quốc Hội để ông ra từ chức trước Quốc Hội, hòng tránh cảnh đổ máu. Nhưng tôi gọi ông Lễ 4 lần không được.
Lúc ấy không phải chỉ có Lữ Đoàn xin lên tấn công tổng hành dinh của nhóm đảo chính. Mà còn có cả một đại đội biệt kích thuộc Lực Lượng Đặc Biệt đi hành quân ở Tây Ninh vừa về đến Sài Gòn cũng báo cáo là lực lượng phòng vệ của các tướng đảo chính ở Tổng Tham Mưu rất yếu, đại đội biệt kích xin phối hợp với 2 tiểu đoàn của Lữ Đoàn Phòng Vệ phủ Tổng Thống để đột kích vào bắt hết các tướng đảo chính. Tướng Nguyễn Văn Phú, lúc ấy còn là Thiếu Tá đã tiếp xúc với tôi về việc này. Nhưng như vừa nói. Tổng Thống không chấp thuận.
Viên đại úy đại đội trưởng Biệt Kích đề nghị cho lực lượng của Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống có xe bọc thép dẫn đầu tiến tới bao vây bộ Tổng Tham Mưu, còn đại đội của anh ta sẽ đột kích bọc hậu từ phía sân vận động vào bắt sống các tướng. Tôi rất buồn bực và lấy làm khó hiểu tại sao ông cụ lại không cho đánh. Ông Nhu ngồi cạnh đó cũng chẳng nói gì.

23. Hỏi: Theo ông trong số các tướng lãnh lúc ấy ai có khả năng nhất?
Đáp: Tôi hầu như không tiếp xúc với các tướng. Ngay cả Phó Tổng Thống cũng vậy. Hầu như chẳng bao giờ gặp. Nhưng tôi có nghe ông Nhu nói ông Nguyễn Văn Thiệu, lúc ấy mang lon đại tá, là một tư lệnh (sư đoàn 5) giỏi nhất. Ông Nhu có nhận xét đó sau khi nghe ông Thiệu thuyết trình ở hội trường Suối Lồ Ồ.
Còn các tướng thì rất sợ Tổng Thống Diệm mỗi khi phải thuyết trình cho ông về tình hình an ninh. Bởi vì ông nắm vững tình hình và nhất là địa hình địa vật… địa lý của từng vùng. Kiến thức về quân sự của ông cũng rất uyên bác. Tôi được biết, khi mới về nước làm thủ tướng, ông đã yêu cầu tổng lãnh sự ở Hồng Kông mua cho ông tất cả tác phẩm của Mao Trạch Đông, Chu Đức, Lâm Bưu, Bành Đức Hoài để đọc và bắt ông Nhu phân tích nghiên cứu trình lên.

24. Hỏi: Nghe nói ông bà Nhu có một biệt thự đẹp lắm ở Đà Lạt. Ông có tới đó bao giờ không?
Đáp: Ông nói đến cái biệt thự này, tôi lại nhớ tới cái ông luật sư Trương Phú Thứ ở Seattle . Ông ấy muốn tìm cách phỏng vấn bà Ngô Đình Nhu mà không sao được. Chẳng rõ tại sao ông ta biết nhà tôi, tìm đến xin tôi giới thiệu với bà Nhu. Tôi biết đã từ lâu bà ấy ẩn dật không muốn báo chí nhắc tới. Nhưng tôi biết bà ấy hãy còn quyến luyến ngôi nhà hai phòng ngủ của một người Pháp, bỏ hoang đã lâu mà anh em chúng tôi hùn tiền mua cho ông bà ấy vào khoảng năm 1960, mà không đủ tiền sửa chữa, cho nên đến khi ông Nhu bị sát hại và bà Nhu sống lưu vong, cũng mới chỉ sửa được phần nửa.
Tôi bảo ông Thứ hãy về Việt Nam, lên Đà Lạt chụp ảnh ngôi nhà ấy rồi mang theo sang Pháp, tìm cách đưa tấm hình đó tận tay bà Nhu thì may ra bà ấy cho gặp. Thì quả thật chắc ông đã biết, ông Thứ đã viết một bài cho tờ Văn Nghệ Tiền Phong nói về bà Nhu ở tuổi gần bát tuần sống như một nhà tu ở Paris. Tôi mong ông Thứ có dịp phổ biến tấm hình này để độc giả thấy cái “ngôi biệt thự xinh đẹp” của ông bà Nhu.

25. Hỏi: Thống tướng Maxwell Taylor, Đại sứ Frederick Nolting và nữ ký giả Marguerite Higgins đều nói được Tổng Thống Diệm tiếp hơn kém khoảng 5 giờ đồng hồ. Ông có biết điều đó và có ý kiến gì không?
Đáp: Lúc ấy nhiều người nói tổng thống tiếp khách lâu quá. Tôi có trình ông, bảo người ta phê bình tổng thống độc thoại!
Ông cười. Ông bảo: Người Mỹ họ ít hiểu về dân tôc mình về lịch sử của nước mình. Mình phải lợi dụng lúc họ chịu nghe để nói cho họ hiểu chứ. Mấy người này đều chăm chú nghe tôi và đặt nhiều câu hỏi. tôi phải trả lời cho họ chứ.

26. Hỏi: Gần ngày đảo chính Tổng Thống có mời ông bà Đại Sứ Mỹ lên Đà Lạt nghỉ tại biệt điện của Tổng Thống và dự dạ tiệc thân mật. Ông có biết họ thảo luận về việc gì không?
Đáp: Tôi có biết và nhớ là Tổng Thống đề nghị chính phủ Mỹ thông cảm những khó khăn của miền Nam và đừng ép ông phải cải cách gấp rút. Ông cũng hứa sẽ xem xét những đề nghị của chính phủ Mỹ một cách nghiêm chỉnh. Nhưng cần phải có thời gian. Phía ông Lodge thì nằng nặc đòi Tổng Thống phải đưa ngay ông Nhu ra ngoại quốc. Nhưng dĩ nhiên không bao giờ Tổng Thống nhượng bộ điều này được.

27. Hỏi: Xin ông tha lỗi, ông là Phật tử chứ ạ? Và trong vụ Phật Giáo có ai nhờ ông làm trung gian để thương lượng giàn xếp giữa chính quyền và bên Phật Giáo đấu tranh không?
Đáp: Phải, tôi là Phật tử đã quy y… – Ông vào phòng lấy ra một cuộn giấy mở cho tôi thấy tờ PHÁI QUY Y rồi nói tiếp – Tôi quy y với thầy Thích Minh Châu. Khi vụ Phật Giáo xảy ra tôi có ra Huế gặp thầy Thích Trí Thủ để nhờ thầy can thiệp với Thượng Tọa Thích Trí Quang… nhưng Hòa Thượng Trí Thủ nói bây giờ các thầy trẻ học thức nhiều, họ có đường lối riêng, các sư già chúng tôi nói họ không nghe. Nên không kết quả. Nhiều người khác cũng can thiệp nhiều ngả khác, cũng không hơn gì. Hồi ấy còn cả một ủy ban của chính phủ gồm nhiều Phật tử đứng đầu là phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cố gắng dàn xếp. Nhưng bên Phật Giáo tranh đấu chỉ muốn lật đổ chính phủ thôi. Nên họ cố đưa ra những yêu sách không cách nào làm được. Tôi rất ân hận là không giúp gì được với tư cách là một Phật tử.

28. Hỏi: Theo ông thì ai cố ý giết hai ông?
Đáp: Theo tôi thì người ra lệnh trực tiếp là tướng Dương Văn Minh. Còn ông Minh có nhận lệnh ở trên nào không thì không biết. Sở dĩ tôi dám quả quyết ông Minh, là vì chính ông Minh sai cận vệ của ông ta là đại úy Nguyễn Văn Nhung cùng đi với tướng Mai Hữu Xuân, để “thi hành nhiệm vụ”(!). Và Nhung đã leo lên xe bọc thép trong đó có hai anh em Tổng Thống. Nhung là một tay giết người không gớm tay, y còn khắc dấu vào cán dao găm mỗi lần giết được một người. Ngay tối mồng hai y còn khoe “con dao lịch sử” của y với con của tướng Đôn cơ mà. Đó là theo chính lời của tướng Đôn thuật lại trong Việt Nam Nhân Chứng. Còn tướng Xuân thì khi “đi đón ông cụ” về và ông cụ đã chết rồi, đã tới trước Dương Văn Minh giơ tay làm dấu, miệng nói: “Mission accomplie” (Nhiệm vụ hoàn thành). Cứ theo những lời trên của tướng Đôn, thì không nghi ngờ gì người chủ trương và ra lệnh giết hai ông là tướng Big Minh.

29. Hỏi: Thời gian quấy rầy ông đã quá dài. Nhất là trong lúc ông còn bịnh nhiều. Xin cám ơn ông đã mất công trả lời những câu hỏi của chúng tôi. Và nếu có thể được xin ông cho một cảm tưởng chung về Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu.
Đáp: Tôi cũng xin cám ơn ông đã tốn công đi từ xa đến để cho tôi được có dịp nói lên vài điều trong số những gì mình còn nhớ được về thời gian dài phục vụ Đất Nước bên cạnh hai nhân vật lịch sử mà tôi hằng kính mến. Cứ mỗi lần nhớ đến hai cụ, tôi đều ngậm ngùi xót xa. Nhất là đối với cụ Diệm. Ông quá ngay thẳng, quá quân tử, quá rộng lượng, lúc nào cũng nghĩ tới làm cho dân được ấm no hơn. Vậy mà người ta nỡ hãm hại ông. Không phải chỉ có những ngày giỗ hai ông tôi mới khóc.
Cụ Vỹ dằn cơn xúc động bắt tay tôi khi tôi từ biệt ra về…


Minh Võ, San Diego 

.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét