Tôi tiến, hãy theo tôi;
tôi lùi, hãy bắn tôi;
tôi chết, hãy trả thù cho tôi.
Tôi không phải là thần thánh,
tôi chỉ là một người bình thường,
tôi chỉ biết thức khuya, dậy sớm làm việc,
một lòng hiến dâng đời tôi cho đất nước và dân tộc.
tôi lùi, hãy bắn tôi;
tôi chết, hãy trả thù cho tôi.
Tôi không phải là thần thánh,
tôi chỉ là một người bình thường,
tôi chỉ biết thức khuya, dậy sớm làm việc,
một lòng hiến dâng đời tôi cho đất nước và dân tộc.
Ngô Đình Diệm
Đó là những lời tâm huyết, mà cũng là
những lời trối trăn đầy máu và lệ của một chiến sĩ quốc gia của : Tổng
Thống Ngô Đình Diệm, còn để lại cho những thế hệ đời sau, trước khi
người từ giã đồng bào đi về phía Cõi Vĩnh Hằng. Mỗi năm đến ngày 1.11
cái chết của người vẫn như một vết thương còn nưng mũ, lại vỡ toác ra
trong trái tim ứa máu của mỗi chúng ta nỗi ngậm ngùi tiếc thương. Hình
ảnh Tổng Thống Diệm mặt đẫm đầy máu, vì bị bắn từ phía sau ót, hai tay
bị trói quặt về phía sau, nằm co người trong lòng chiếc thiết vận xa
M113 oan nghiệt, vẫn luôn là một cơn ác mộng chập chờn hiện về trong
cõi ký ức của những người còn nhớ đến ông, tri ân ông như là một anh
hùng dân tộc, mà đã dẹp tan loạn sứ quân Miền Nam sau lần chia cắt đất
nước tháng 7.1954, trần ai khổ ải giành lại độc lập cho đồng bào ông từ
tay thực dân Pháp. Chỉ với hai bàn tay trắng cùng một tấm lòng son
sắt, ông đã tống khứ được đạo quân viễn chinh 150,000 quân Pháp vĩnh
viễn ra khỏi Việt Nam. Trên hết tất cả, là một con người phi thường
đứng mũi chịu sào ngăn chống hai mặt trận lớn : sự kiêu ngạo ngu xuẩn
của bạn đồng minh và sự hung hãn khát máu của giặc cộng sản.
Tổng Thống Diệm có gì trong tay để đối đầu với hai chiến trường nặng
độ đó ? Ngay cả lực lượng bảo vệ trong những năm đầu làm tổng thống
của ông cũng không có, đến nỗi tổng thống Phi Luật Tân Magsaysay phải
gửi chuyên viên quân sự sang giúp thành lập và huấn luyện Tiểu Đoàn
Phòng Vệ Phủ Tổng Thống hỗ trợ cho người bạn cô đơn của mình. Một căn
phòng làm việc nhỏ với một chiếc bàn gỗ cũ, vài cái ghế nghèo nàn để
tiếp khách, một chiếc phản không nệm cùng một chiếc mùng nhỏ trong một
căn phòng ngủ không có máy lạnh, chỉ có một chiếc quạt trần. Còn gì nữa
cho những giờ phút thư thả sau một ngày làm việc căng thẳng. Trời ơi,
chỉ có một gói thuốc lá đen hiệu Bastos rẻ tiền trong chiếc túi áo vải
đã sờn. Ăn uống thì kham khổ như một nhà tu, buổi sáng chỉ là một tô hủ
tiếu hay mì, buổi ăn chiều chỉ gồm có một dĩa cá kho và một tô canh
rau hay đậu. Thế còn những giấc ngủ hằng đêm đã được người thu xếp như
thế nào ? Người đi ngủ, thường thường lúc 1 giờ khuya và thức dậy lúc 5
giờ sáng ngày hôm sau, nghĩa là chỉ có 4 tiếng đồng hồ chợp mắt, mà
chưa hẳn ông đã được ngủ ngon trong bối cảnh một quốc gia hãy còn quá
nhiều công việc bề bộn, mà cái nào cũng hết sức cấp bách. Kết quả của
sự hy sinh và đức tính khiêm cung cần kiệm ấy ? Hàng ngàn trường học,
nhà thương trên khắp nẽo đường đất nước được xây dựng, hàng ngàn đền
miếu, chùa chiền, nhà thờ, thánh thất hân hoan vươn mình lên phía trời
xanh, hàng triệu mẫu ruộng phơi phới màu xanh của lúa, hàng triệu đồng
bào di cư từ Miền Bắc có công ăn việc làm và đang tiến đến lằn ranh của
sự giàu có thịnh vượng. Người đã xây dựng những quân trường tối tân
nhất Đông Nam Á để đào tạo nhân tài lãnh đạo và bảo vệ nước Nam, nền kỹ
nghệ được mở mang với những ống khói của hàng hàng lớp lớp nhà máy
cuồn cuộn những khối mây đen tỏa rộng lên không gian, vực dậy sức sống
của một đất nước nghèo nàn sau cơn chiến tranh.
Còn nhiều nữa những kỳ công của một con người khiêm tốn tự nhận mình
là bình thường không thể kể ra hết, để đem nước Việt Nam Cộng Hòa
ngẫng cao đầu trên trường thế giới, trở thành một quốc gia hùng mạnh
nhất Đông Nam Á thập niên 1950 – 1960. Tất cả những công lao to lớn ấy
đã rất hiếm khi được một nhà viết sử thế giới phương Tây và Hoa Kỳ nào
liệt kê ra để vinh danh Tổng Thống Diệm. Trái lại, những kẻ gọi là
những nhà viết sử vô tư và khách quan đó, đã tỉ mỉ dùng kính khuếch đại
rọi vào từng ngóc ngách khiếm khuyết của một chính quyền non trẻ thiếu
thốn nhân lực, kinh nghiệm và cực nghèo nàn, hả hê một cách độc ác
trưng lên từng trang sách những : “sự thật” về một chính thể “độc tài”,
một chính quyền “tham nhũng”, một bộ máy “thối nát”, để che dấu và
biện minh cho sự bất lực, hèn nhát, ngu dốt, đểu cáng, sát nhân và cuối
cùng là sự tháo chạy của một cường quốc kiêu ngạo.
Tất cả những sự thất bại trên đất nước Việt Nam đều được tàn nhẫn
trút lên đầu quân và dân Việt Nam Cộng Hòa, biểu lộ cái hèn của một gã
người lớn ăn trộm bị bắt quả tang nhưng cãi chầy cãi cối đổ tội cho một
đứa trẻ đói khát đang đứng ngơ ngác bên đường. Đó là cung cách viết sử
của thế giới phương Tây và Hoa Kỳ, ngoại trừ một vài tiếng vang vọng
lương tâm của những tác phẩm và con người còn biết tôn trọng lẽ phải
cùng sự thật, nhưng hãy còn quá ít. Đối với bạn thì độc ác như thế, còn
đối với thù thì sao ? Để biện minh cho sự thất bại của mình, những nhà
viết sử Pháp và Mỹ đã phải cực lực nâng đối thủ lên hàng siêu đẳng và
huyền thoại. Rằng tướng A, tướng B đó chúng nó quá giỏi, rằng ông già
râu đó là một trong 100 khuôn mặt lớn của thế giới, chúng tôi thua là
phải, cái thua của chúng tôi là vô cùng... xứng đáng ! Nhưng họ không
hề bao giờ viết lại cho hậu thế cùng biết rằng, gã râu xồm ấy, cũng
những tướng A, tướng B đó của kẻ thù, đã từng nhiều lần là bại tướng
nhục nhã dưới tay những tướng C, tướng D của một đất nước có tên là
Việt Nam Cộng Hòa và một quân đội có tên là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Những cuốn sử đầy thành kiến và thiên lệch đó vẽ ra hình ảnh một ông
vua ngồi ngất ngưởng trên ngai vàng, thỏa mãn với sự tung hô cúc cung
tận tụy của bọn nịnh thần vô lại, phẩy tay một cái là bắt nhốt người
này, bỏ tù người kia. Nhưng trong thực tế, Tổng Thống Diệm là một con
người siêng năng, ông thường ít ngồi trong văn phòng làm việc, mà rất
thường xuyên đi thăm hỏi dân tình trên khắp nẽo đường đất nước. Rất
hiếm một cuốn sách nào kể lại sự việc người thanh niên tên Hà Văn Trí đã
dùng súng ám sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm, khi ông lên kinh lý Ban Mê
Thuột trong nâm 1961. Thật may mắn, viên đạn chỉ bắn bị thương một vị
bộ trưởng tháp tùng. Với cái tội tầy trời đó, anh Trí chỉ phải ngồi tù
có 2 năm rồi được phóng thích. Chúng ta thách các nhà viết sử Mỹ nào
tìm được một sự kiện tương tự với một bản án khá hơn ở bất cứ quốc gia
nào. Hay ít cuốn sách nào tiết lộ việc Tổng Thống Diệm dùng ngân quỹ
nghèo nàn của quốc gia, hoan hỉ giúp xây dựng nên những ngôi chùa bề
thế, uy nghi Xá Lợi, Vĩnh Nghiêm, Ấn Quang, Viện Hóa Đạo, thánh thất
Cao Đài, v.v.. từ năm 1956 trở đi.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm sinh ngày 3.1.1901 ở làng Đại Phong, huyện
Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông là người con thứ ba trong một gia đình
qúi tộc nề nếp, nhiều đời làm quan trong triều đình nhà Nguyễn, và
trong giòng họ theo đạo Công giáo từ đầu thế kỷ thứ 17. Ông có hai
người anh là Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Thục, các em trai là Ngô Đình
Nhu, Ngô Đình Cẩn, Ngô Đình Luyện và hai em gái. Không ít người mang họ
Ngô đã là những thánh tử đạo trong những cuộc bách hại người theo đạo
Kitô của triều đình nhà Nguyễn, nhất là dưới thời vua Minh Mạng. Theo
tài liệu của các sử gia Mỹ, ông James S. Olson và Randy Roberts trong
quyển Where The Domino Fell, thì giòng họ Ngô là hậu duệ của Ngô
Quyền, người anh hùng Nước Nam đã kiêu dũng giành lại được nền độc lập
cho dân tộc Việt Nam năm 939 từ xâm lược Bắc phương. Có phải chăng
giòng máu anh hùng ấy sau một ngàn năm chảy luân lưu trong nhiều thế
hệ, định mệnh đã chọn cậu bé Ngô Đình Diệm tiếp nối con đường dựng nước
và giữ nước của cha ông, là giành lại độc lập từ xâm lược Bắc phương
và Tây phương. Một công việc cao cả nhưng nặng oằn như núi Thái Sơn
chất chồng trên vai, đòi hỏi con người ấy phải là một con người kiệt
xuất có ý chí bằng thép và trái tim yêu nước nồng nàn.
Thân phụ của ông Ngô Đình Diệm là cụ Ngô Đình Khả, làm quan triều
vua Thành Thái (1889 – 1907). Trong những năm 1880, cụ Khả được gia
đình gởi sang Mã Lai Á học làm linh mục. Nhưng ở quê nhà đã xảy ra một
cuộc náo loạn bách hại người Công giáo của những người theo đạo giáo
khác, gia đình cụ Khả gần như bị tuyệt diệt. Được tin chẳng lành cụ Khả
bỏ học trở về Việt Nam, để chỉ ngậm ngùi đau xót trước cái chết bi
thảm của ông bà, cha mẹ, anh chị em, chú bác cùng thân nhân. Là một
thanh niên có học thức, nói tiếng Pháp lưu loát, nên chẳng mấy chốc mà
cụ Khả đã rất thành công trong chốn quan trường, dần dần được thăng lên
đến chức Phụ Chính Đại Thần trong triều đình Huế. Người vợ lớn cụ Khả
mất sớm, bà cụ Khả là người vợ sau sinh cho ông chín người con, trong
đó có bảy trai. Cụ Khả đã khẳng khái phản đối thực dân Pháp bắt vua
Thành Thái đi đày ở đảo Reunion, sau sự thất bại của cuộc binh biến
Thành Mang Cá Huế năm 1885, và đã cởi áo từ quan. Để ngợi ca hành động
trung quân ấy, trong dân gian truyền tụng câu vè Đày Vua Không Khả, Đào
Mả Không Bài. Thượng Thư Bộ Lại, ông Nguyễn Hữu Bài, bạn đồng liêu
thân thiết với cụ Khả và gia đình nhà Ngô cũng đã đi vào lịch sử với
hành động phản kháng thực dân Pháp hỗn láo muốn xúc phạm đến lăng tẫm
nhà Nguyễn.
Lớn lên trong một gia đình thuần thành, ngoan đạo dựa trên nền tảng
đức tin tuyệt đối cùng hạnh bác ái vị tha, được cụ thân sinh hun túc
cho một nền học vấn dựïa trên những nguyên tắc sĩ khí của Khổng giáo,
Tam Cương, Ngũ Thường, Trung Quân và Ái Quốc, cậu bé Ngô Đình Diệm đã
sớm tỏ ra là một nhân vật lạ thường so với những đứa trẻ cùng hạng
tuổi. Trong lúc bọn trẻ tụ tập chơi đùa ngoài đường phố, thì cậu bé
Diệm chỉ mải mê với sách vở, bởi cậu muốn khám phá thế giới kỳ diệu của
văn chương, triết học và tôn giáo. Tuy sinh trưởng trong một gia đình
quyền quý, nhưng người trai trẻ Ngô Đình Diệm luôn yêu mến giới cần lao
chân lấm tay bùn. Có nhiều dịp gần gũi với lớp người này, trong đầu
cậu bé đã hình thành một khái niệm về nỗi khỗ của giới cần lao và cái
nhục của những người mất nước :Làm sao nâng đỡ họ, tạo cho họ một đời
sống xứng đáng, tự do hơn. Đó là cái nền tảng thúc đẩy cậu bé Diệm trở
thành một con người dấn thân làm cách mạng tranh đấu giành độc lập cho
xứ sở, kiến tạo một xã hội thịnh vượng cho dân tộc của cậu.
Đến tuổi đi học, cậu Diệm được cụ Khả cho vào Trường Quốc Học Huế.
Trong thời gian này, cậu học trò nhỏ ấy có dịp quen biết với một ngươi
học trò lớn hơn cậu đến mười tuổi, là cậu Nguyễn Sinh Cung, sau này đã
đổi tên thành Hồ Chí Minh. Định mệnh đã khiến xui hai đối thủ chính trị
gặp gỡ sớm, người này biết rõ cá tính người kia và cùng kính trọng lẫn
nhau, dẫu quan niệm và phương cách đấu tranh khác biệt. Là một con
người ngỗ ngáo, quỉ quyệt và hung tợn, Hồ đã từng giết anh cả ông Diệm
là Ngô Đình Khôi, sát hại Huỳnh Giáo Chủ của Phật Giáo Hòa Hảo, nhiều
chí sĩ khác như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, điềm chỉ cụ Phan Bội Châu
cho Pháp bắt. Nhưng khi ông Diệm bị quân Việt Minh bắt giao nộp cho Hồ
trong năm 1946, thì Hồ đã không dám sát hại ông, chỉ giam lỏng. Thật
may mắn, ông Diệm đã tìm cách trốn thoát được. Hồ Chí Minh không làm gì
được ông Diệm, vì hắn vừa mới ký xong Hiệp Định Sơ Bộ ngày 6.3.1946,
trong đó có điều khoản bảo vệ người quốc gia do phía Pháp đưa ra. Chẳng
những thế mà vài thập niên sau, nhận thấy mình thua kém xa người bạn
trường cũ về đạo đức, tác phong, cuộc sống thánh thiện không chút tì
vết, Hồ đã viết sách “Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện” ca ngợi nâng bi lấy
bản thân với bút hiệu Trần Dân Tiên, cho bọn văn nô đàn em thổi phồng
Hồ lên ngang tầm với ông Diệm về mọi mặt. Ông Diệm sống cuộc đời độc
thân, thì Hồ cũng xê li ba te (celibataire, không có vợ) hách xì xằng
như ai. Ông Diệm hút thuốc Bastos, thì Hồ cũng ti toe hút thuốc thơm
đầu lọc, có lẽ hút thuốc lá đen khét quá chịu không thấu. Cụ Diệm sống
trong một căn phòng nhỏ đơn sơ, thì Hồ cũng cho thợ mộc cất cho Hồ một
căn nhà toàn gỗ quý chở từ miền rừng thượng du về, chứ không chịu ở
trong dinh Toàn Quyền cũ.
Năm 15 tuổi cậu Diệm có ý định theo ngành linh mục, nhưng ông anh là
Ngô Đình Thục đã khuyên ngăn cậu, rằng cậu không thích hợp với công
việc này, ông nhìn thấy trước một cái gì đó lớn lao cao cả hơn ngoài
trần thế đang chờ đợi cậu em. Con người thích hợp với việc đạo, chăn
dắt con chiên chính là ông Thục, chứ không ai khác trong gia đình. Cậu
Diệm nghe lời anh, nhưng thề hiến dâng linh hồn cho Chúa Trời, bằng
cách nguyện sống đời độc thân vĩnh viễn. Năm 16 tuổi cậu Diệm tốt
nghiệp Cao Đẳng Tiểu Học (tương đương bằng Trung Hoc Đệ Nhất Cấp) và
trúng tuyển vào Trường Hậu Bổ Quốc Gia Huế (tương tự Cao Đẳng Quốc Gia
Hành Chánh sau này). Khi nghe tin chàng thanh niên Ngô Đình Diệm đang
học trong trường nhà nước, Hồ ở Pháp xốn xang sốt ruột quá, bèn gởi đơn
xin triều đình Pháp cho Hồ vào trường Thuộc Địa Pháp, nhưng không được
chấp thuận. Người Pháp đã bỏ lỡ một cơ hội đào tạo một loại hàng thần
mẫn cán như Hoàng Cao Khải, Trương Quang Ngọc, Huỳnh Công Tấn, lẽ ra đã
có thể tránh được trận Điện Biên Phủ năm 1954, nếu Hồ đã nghiễm nhiên
trở thành công bộc cúc cung phục vụ quyền lợi mẫu quốc Pháp.
Nhưng với chàng thanh niên trẻ Ngô Đình Diệm thì không, người không
đời nào chịu lòn cúi thực dân Pháp, dù cho chúng có đem danh lợi và
quyền lực làm mồi nhữ. Sau khi ra trường, chỉ mới hai mươi tuổi, chàng
đã được bổ làm Tri Huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, thăng Tri Phủ năm
1932, rồi Tuần Vũ Bình Thuận. Người Pháp bắt đầu chú ý đến cái tên Ngô
Đình Diệm, khi trong năm 1929, ông đã phá tan được một âm mưu khởi loạn
của cộng sản. Năm 1933, chỉ mới có 32 tuổi, ông Diệm đã được vua Bảo
Đại (1925 – 1945) tín nhiệm cất nhắc lên làm Thượng Thư Bộ Lại, một
chức vụ tương đương Thủ Tướng sau này, kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Thanh
Tra, đặc cách toàn quyền thanh trừng bọn tham quan ô lại nhũng nhiễu
dân chúng. Với mối liên hệ này, hai mươi năm sau, trong cương vị Quốc
Trưởng, ông Bảo Đại vẫn tín nhiệm ông Diệm trong chức vụ Thủ Tướng của
một nước Việt Nam độc lập sau Hiệp Định Geneva (tiếng Pháp là Genève)
ký hiệu lực ngày 20.7.1954. Đến đây, với chức Thượng Thư Bộ Lại, nếu ở
vị trí những con người khác thì đã lên đến tột đỉnh công danh rồi,
nhưng cái bả vinh hoa phù phiếm ấy không làm cho người xao nhãng một
chút nào cái nhục vong quốc. Người lấy chức vụ của mình làm phương tiện
cho công cuộc cách mạng. Với dân, vị thượng thư trẻ luôn luôn đi sát
họ, tìm hiểu để cảm thông nguyện vọng và nỗi cơ khổ của từng lớp người
để tìm biện pháp che chở và đem lại quyền lợi cho họ. Bởi thế, người
dân Bình Thuận đã dựng bia kỷ niệm để tri ân công đức vị Tuần Vũ họ
Ngô, như đã tôn thờ các vị thần hay những anh hùng cứu quốc khác.
Với thực dân Pháp, trườc chính sách ngu dân của chúng, vị thượng thư
trẻ tích cực đề nghị nhiều cải tổ như tổ chức Viện Dân Biểu, để người
hiền tài trong quần chúng có thể tham gia vào chính quyền, lập hiến
pháp để mở đường giải thoát đất nước, yêu cầu nhà nước Pháp giảm sưu
thuế. Dĩ nhiên những đề nghị táo bạo ấy đều bị người Pháp gạt bỏ. Nhận
thấy người Pháp không thực tâm trao trả độc lập cho người Việt Nam, vua
Bảo Đại cô đơn và bất lực không xoay chuyển được tình thế, ông Diệm
cởi áo từ quan, như là một hình thức phản đối và cảnh cáo người Pháp
biết rằng, một nhà nho nặng lòng với quốc gia như ông, không bao giờ có
thể chịu nhục vào lòn ra cúi người Pháp. Ra đi không có nghĩa là bỏ
cuộc, mà có một ngày ông sẽ trở lại trong tư thế đối đầu trực tiếp với
người Pháp.
Nuôi chí phục quốc đánh đuổi người Pháp, trở về Huế, người chí sĩ
trẻ tuổi ấy sống một cuộc đời thanh bạch. Ông luôn tìm mọi cơ hội tiếp
xúc với những nhà chí sĩ yêu nước khác như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Kỳ
Ngoại Hầu Cường Để, cụ Phan Bội Châu,... để trao đổi chính kiến và cùng
tìm một con đường ngắn nhất giải phóng đất nước. Nhận thấy ông Diệm là
một con người cách mạng nguy hiểm, là kẻ thù lợi hại, người Pháp từ
năm 1944 đã có những kế hoạch bắt giữ ông. Toàn quyền Decoux lệnh cho
mật thám vây bắt ông Diệm, cuộc săn đuổi ráo riết diễn ra trên những
vùng đất từ Thanh Hóa, Nghệ An kéo dài vào đến Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Có điều trớ trêu là, ông Diệm không rơi vào tay quân Pháp mà lại sa vào
nhà tù của Việt Minh tháng 2.1946. Ông được đưa đến gặp Hồ Chí Minh,
lúc này đã là chủ tịch kháng chiến. Hồ ngọt mật khuyến dụ nhà chí sĩ
tham gia chính quyền và nhận chức Bộ Trưởng Nội Vụ, đồng thời chìa bản
văn Hiệp Định Sơ Bộ dự định ký với triều đình Pháp để hợp thức hóa cho
quân Pháp trở lại Đông Dương. Dĩ nhiên ông Diệm đủ tài ba và thông minh
để không lọt vào cái bẫy của Hồ. Hồ chỉ muốn lợi dụng uy tín của ông
Diệm để cùng chia sẻ trách nhiệm trước lịch sử sau này, về cái tội rước
Pháp trở lại Việt Nam. Mối thù giết người anh cả vẫn còn canh cánh bên
lòng, ông Diệm đã từng thề rằng trong cuộc đời mình, ông không bao giờ
tha thứ và hợp tác với hai kẻ thù : cộng sản và thực dân Pháp. Năm
1945, Việt Minh đã chôn sống quan tuần phủ Quảng Ngãi Ngô Đình Khôi và
người con trai của ông, vì cái “tội” tuyên bố chống cộng đến kỳ cùng.
Chiến tranh Việt – Pháp lan rộng, trong toan tính lợi dụng lực lượng
người quốc gia làm vây cánh đánh Việt Minh, Cao Ủy Pháp D’Argenlieu
một mặt hứa... cụi với vua Bảo Đại sẽ trao trả độc lập cho Việt Nam,
một mặt tìm cách tiếp xúc với ông Ngô Đình Diệm, khẩn khoản mời ông
nhận lập chính phủ, nhưng người đã thẳng thắn bác bỏ, vì nhận ra sự giả
dối và đểu cáng của Pháp. Người ta đã đếm ra được rằng, từ 1946 đến
1954, người Pháp đã hứa và trao trả độc đập giả vờ cho người Việt Nam
không dưới, trời đất, hai chục lần. Mùa thu năm 1949, nhà chí sĩ họ Ngô
quyết định ra đi thật xa, xuất dương đến những vùng đất khác của thế
giới để quan sát sinh hoạt chính trị ở những nơi đó, đồng thời tìm mọi
cơ hội tỏ bày nguyện vọng tự do và độc lập thật sự của dân tộc Việt Nam.
Ông đã lần lượt đặt chân đến những nước Phi Luật Tân, Nhật, Hoa Kỳ,
Canada, Bỉ, Thụy Sĩ,... Nhà chí sĩ đã ngụ cư ở Hoa Kỳ trong khoảng thời
gian 3 năm tại tu viện Marykholl, Lakewood, tiểu bang New Jersey. Trong
thời gian khói lửa ngút trời ở Việt Nam, người Mỹ đã giúp người Pháp
đánh Việt Minh, song song với việc tìm kiếm một người quốc gia chân
chính, chống cộng, có khả năng lãnh đạo và đem đến sự ổn định cho nước
Việt Nam độc lập.
Ông Diệm thường được nhớ đến như là một chí sĩ, một tổng thống xuất
sắc, một nhà nho đầy hào khí, nhưng có một khía cạnh văn chương độc đáo
của ông mà hiếm người còn nhớ. Thời đó, nhiều nhà nho Việt Nam làm
cách mạng chống Pháp như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đều có để lại
cho đời sau những bài thơ biểu lộ ý chí đấu tranh phục quốc, chí sĩ Ngô
Đình Diệm cũng có lúc cảm khái sáng tác một bài thơ dạng khẩu khí như
sau trong thời gian bước chân ông ghi dấu trên những nẽo đường thế giới
:
Nỗi lòng
Gươm đàn nửa gánh quẩy sang sông
Hỏi bến : thuyền không lái cũng không !
Xe muối nặng nề thân vó Ký
Đường mây rộng rãi tiếc chim Hồng
Vá trời lấp biển người đâu tá ?
Bán lợi mua danh chợ vẫn đông !
Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế
Cắm sào đợi khách thuở nào trong ?
Hỏi bến : thuyền không lái cũng không !
Xe muối nặng nề thân vó Ký
Đường mây rộng rãi tiếc chim Hồng
Vá trời lấp biển người đâu tá ?
Bán lợi mua danh chợ vẫn đông !
Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế
Cắm sào đợi khách thuở nào trong ?
Ngô Đình Diệm, 1953
Bài thơ biểu lộ tâm trạng của một người
anh hùng đang bôn ba tìm con đường giải phóng dân tộc, chí cả là gươm,
thao lược là đàn, con sông rộng ngăn cách là cuộc đấu tranh gian khổ.
Trong lúc đất nước ngửa nghiêng, mà người anh hùng ấy vẫn còn bị chôn
vùi trong bóng tối, như loài ngựa Ký chỉ được sử dụng để kéo xe muối,
thay vì sãi vó tung hoành bốn phương, như loài chim Hồng Hộc có đôi
cánh cứmg mạnh có thể bay vút lên cõi trời cao bao la, nhưng vẫn ngậm
ngùi xếp cánh.
Chẳng mấy chốc mà tư cách đạo đức của một con chiên ngoan đạo, tác
phong đĩnh đạc của một nhà nho Á Đông, ý chí kiên quyết của một nhà
cách mạng và khí tượng dị thường của một con người kiệt liệt, đã được
những nhân vật có thế lực nhất thời ấy ở nước Mỹ chú ý như các Thượng
Nghị Sĩ John F. Kennedy, Mike Mansfield, Lyndon Johnson, Hubert
Humphrey, giáo sư chính trị học Wesley Fishel, Hồng Y Richard Spellman,
chủ tịch tối cao pháp viện William Douglas. Những cái tên này rồi đây
sẽ là một cái hạt nhân thúc đẩy việc ủng hộ chí sĩ Ngô Đình Diệm về
nước lèo lái Việt Nam và đồng bào ông. Đến như Charles Degaulle, con
người từng bôn ba xứ ngưới tìm cách phục quốc như ông Diệm, dù ở tư thế
đối đầu chính kiến với ông, cũng đã thành thật ca ngợi ông Diệm là một
Winston Churchill của Á Đông.
Người Mỹ nhận thấy đã đến lúc họ nên có một vai trò tích cực tại
vùng Đông Nam Á để thay thế một nước Pháp đã tàn lụi dần trong cuộc
chiến tranh Đông Dương và ở những thuộc địa Trung Đông, Phi châu, nên
họ chẳng còn thiết tha đến việc giúp người Pháp đạt được chiến thắng ở
Điện Biện Phủ. Người Pháp phải ra đi để nhường sân khấu chính trị lại
cho người Mỹ. Không nhận được viện trợ đầy đủ của Hoa Kỳ, quân Pháp
đành cam chiến bại tại chiến trường này, đánh dấu chấm hết một thế kỷ đô
hộ Việt Nam, bằng Hiệp Định Đình Chiến Geneva có hiệu lực từ ngày
20.7.1954, trong đó quy định những điều khoản quan trọng:
1./ Nước Việt Nam tạm thời phân đôi ở vĩ tuyến thứ 17, lấy sông Bến Hải làm ranh giới.
2./ Trong năm 1956 sẽ tổ chức cuộc tổng tuyển cử tự do giữa hai miền dưới sự giám sát của quốc tế.
3./ Trong vòng 300 ngày, dân chúng và quân đội hai miền Bắc – Nam được tự do chọn lựa vùng đất sinh sống.
Trong bối cảnh cuộc chiến tranh cộng sản và Pháp đang đi dần đến
giai đoạn quyết định, vua Bảo Đại được sự hứa hẹn của người Pháp về một
nền độc lập thật sự cho Việt Nam, với điều kiện vẫn phải ở trong Khối
Liên Hiệp Pháp, đã nghĩ đến việc mời một người bạn cũ có đầy đủ mọi
tiêu chuẩn của một nhà lãnh đạo tài ba ra lập chính phủ, là ông Ngô
Đình Diệm. Người Pháp không mặn mà với ý tưởng ấy, nhưng buộc phải
nhượng bộ vua Bảo Đại, vì người Mỹ đã tỏ rõ ý định ủng hộ ông Diệm.
Trong thời điểm hỗn mang u ám đó, dân chúng cũng không còn tin tưởng
vào một nhân vật nào nữa, khi mà nhiều chính phủ thân Pháp, thân Nhật
đều ngã đổ nhanh chóng, từ học giả Trần Trọng Kim đến Nguyễn Văn Xuân.
Với lòng yêu nước và trái tim quả cảm, chí sĩ Ngô Đình Diệm bằng lòng
đứng ra lèo lái con thuyền quốc gia. Giờ đây con ngựa Ký đã có thể cất
vó, con chim Hồng đã có thể tung cánh làm chuyện lấp biển vá trời. Ngày
7.7.1954, sau khi từ nước Mỹ trở về Việt Nam, với chức vụ Thủ Tướng do
vua Bảo Đại bổ nhiệm, ông Diệm chính thức trình diện trước quốc dân
đồng bào bản thân ông và thành phần nội các gồm 15 vị bộ trưởng. Công
việc đầu tiên của người thủ tướng trẻ là lệnh cho Ngoại Trưởng Trần Văn
Đỗ không đặt viết ký bất kỳ văn kiện nào trong nghị hội Geneva, để
không bị ràng buộc bất cứ điều gì với cộng sản và Pháp. Tuy nhiên sau
khi Hiệp Định đã được ký rồi, thì chính phủ Ngô Đình Diệm, dưới sức ép
của Hoa Kỳ, đã công nhận một số điều khoản, như cho phép bộ đội Việt
Minh ở Miền Nam được tập kết ra Bắc và nhận vào Nam vô giới hạn đồng
bào Miền Bắc muốn sinh sống tại miền tự do. Kết quả, có 800 ngàn người
dân Miền Bắc đã được tàu biển và máy bay của Pháp, Mỹ vận chuyển vào
Nam cùng với 300 ngàn binh sĩ và gia đình thuộc Quân Đội Quốc Gia Việt
Nam.
Chỉ mới nhận nhiệm sở có vỏn vẹn 13 ngày, Thủ Tướng Diệm cùng các
cộng sự của ông đã xăn tay áo bắt tay ngay vào việc tổ chức tiếp đón và
định cư đồng bào Miền Bắc, với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ. Đến đây thì
người Pháp và người Mỹ mới có thể nhận thức được tài năng của ông Diệm
và anh em của ông. Cùng với 15 cộng sự viên, ngân khố trống rỗng, nhân
lực thiếu thốn trầm trọng, quân đội thất tán, lòng người còn ngơ ngác
hoang mang, không hiểu bằng cách nào mà Thủ Tướng Diệm có thể tổ chức
được một guồng máy khổng lồ và hữu hiệu đón nhận trong vòng 10 tháng
một khối lượng người đông đảo tới một triệu. Chính quyền đã phân phối
thuốc men thực phẩm, phân định khu vực cư trú tạm thời hoặc vĩnh viễn
cho đồng bào di cư, cùng vô số những công tác không tên khác. Bộ Tổng
Tham Mưu điều động 300 ngàn binh sĩ trấn đóng khắp các quân khu bảo vệ
làng thôn, song song với việc gấp rút tiếp thu những vùng Việt Minh đã
rút đi về Bắc, v.v.. Nào phải có những công việc đón nhận và định cư ấy
đâu, với đồng bào Miền Nam, chính phủ ông Diệm soạn thảo những kế
hoạch phục hồi, tái thiết, phát triễn kỹ nghệ, chấn hưng nông nghiệp,
khuyến khích và tài trợ đồng bào Miền Trung vào Nam khẩn hoang lập ấp,
đẩy mạnh công tác cưỡng bách giáo dục cấp tiểu học và trung học trong
hạng tuổi từ 6 đến 14, xây dựng thêm đại học tại Sài gòn và Huế, hỗ trợ
đại học Chính Trị Kinh Doanh tại Đà Lạt. Xuất thân từ Trường Hành
Chánh, Thủ Tướng Diệm luôn mang mển trong lòng hoài bão gầy dựng một
thế hệ viên chức tài năng, mẫn cán và liêm khiết như ông, nên ông đã
đích thân thúc đẩy việc thành lập Trường Quốc Gia Hành Chánh để cung
cấp cán bộ lãnh đạo đến tận cấp quận. Đất nước vẫn còn đang trong hiểm
họa của một cuộc chiến tranh chống cộng tiềm tàng, ông Diệm đã nghĩ đến
việc gởi các sinh viên Quốc Gia Hành Chánh theo học những khóa quân sự
tại các quân trường lớn, để họ trở thành những hào kiệt văn võ song
toàn.
Văn ôn thì cũng phải có võ luyện. Để có một quân đội mạnh và nhiều
cấp chỉ huy giỏi giữ gìn bờ cõi, trấn thủ biên cương, bình định tặc
khấu, tiểu trừ thổ phỉ, sau khi đã được quốc dân bầu làm tổng thống
ngày 23.10.1956, ông Diệm đã lên Đà Lạt đặt viên đá xây dựng Trường Võ
Bị Quốc Gia, với kỳ vọng đào tạo cho đất nước những cấp chỉ huy và lãnh
đạo trẻ đầy tài năng, mà có thể cùng quân đội đương đầu với một cuộc
xâm lấn từ phương Bắc. Ông Diệm cũng chú trọng đến việc phát triễn
Trường Bộ Binh Thủ Đức, Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế, các Trường Hải Quân,
Không Quân, để trong một thời gian ngắn, cái xương sống vững chắc của
toàn quân đội Việt Nam Cộng Hòa đuợc hình thành. Từ tận đáy lòng, Tổng
Thống Diệm luôn tri ân những người lính đã hy sinh trên chiến trường,
hay còn đang anh dũng chiến đấu dưới Lá Cờ Vàng Đại Nghĩa, ông đã cho
thành lập Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu nuôi nấng và giáo dục con em
binh sĩ quốc gia được thành người hữu dụng cho xã hội và cán bộ tài
năng cho quân đội. Hoa Kỳ không có ngân khoản viện trợ cho Trường Thiếu
Sinh Quân, chính phủ đã trích từ ngân khoản quân đội tài trợ cho hoạt
động của trường. Đi xa hơn nữa, luôn luôn khoắc khoải ưu tư số phận của
những con côi và góa phụ của tử sĩ , Tổng Thống Diệm suy nghĩ tìm cách
nâng đỡ tinh thần và vật chất cho họ, bằng cách cho xây cất hầu hết
trên toàn quốc những Trường Quốc Gia Nghĩa Tử, con em chiến sĩ trận
vong được vào học miễn phí, các học sinh xuất sắc được cấp học bỗng du
học ngoại quốc.
Với nhân lực bổ sung từ Miền Bắc gần một triệu người và với dân số
14 triiệu, trong đó 90% sống bằng nông nghiệp, chính phủ Ngô Đình Diệm
đã có chương trình cấp phát ruộng đất cho nông dân, nên trong vòng vài
năm sản lượng lúa đã lên đến nhiều chục triệu tấn. Sau một thập niên
chiến tranh từ 1945 - 1955, nước Việt Nam Cộng Hòa dưới thời chính phủ
ông Diệm đã có thể bắt đầu xuất cảng nhiều triệu tấn gạo để lấy ngoại
tệ. Công cuộc phát triễn kỹ nghệ, thương mại cũng được phát triễn mạnh
mẽ, những mặt hàng nội hóa đã dần dần có thể cung ứng đủ cho nhu cầu
tiêu dùng trong nước. Người Việt Nam không có tư tưởng chuộng hàng
ngoại quốc, vì phẩm chất hàng nội địa rất cao. Từ một nước nghèo nàn,
lạc hậu, chỉ trong vài năm ngắn ngủi, Tổng Thống Diệm đã đưa Việt Nam
lên hàng cường quốc Đông Nam Á, trước sự ngạc nhiên cùng cực của người
Mỹ và sự kính nể của các nước Á châu, nhất là những lân bang như Lào,
Miên, Thái, Phi. Nước Phi có giải thưởng Tổng Thống Magsaysay dành trao
tặng cho những vị nguyên thủ quốc gia tài năng của châu Á, năm 1960 đã
tặng giải này cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm của Việt Nam Cộng Hòa, bởi
những thành tích sáng chói mà ông cùng chính phủ của ông đã tạo được.
Tổng Thống Diệm đã làm một nghĩa cử cao đẹp, khi ông hiến tặng số tiền
thưởng 15 ngàn mỹ kim cho ngân quỹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma cứu giúp
người Tây Tạng vượt biên sang cư ngụ tại Ấn Độ. Người ta vẫn thường
nhầm lẫn cho rằng Tổng Thống Diệm bênh vực và giành nhiều ưu tiên cho
Công giáo Việt Nam, nhưng trong thực tế thì người đã từng mạnh mẽ bác
bỏ nhiều yêu sách quá đáng từ giới này, một số linh mục đã rất buồn
phiền thất vọng.
Tổng Thống Mỹ Eisenhower vốn không mấy tin tưởng và mặn mà với Tổng
Thống Diệm, nhưng trước những thành quả hiển nhiên đó, ông đã phải cân
nhắc lại cách suy nghĩ của mình. Chỉ với không quá 400 triệu mỹ kim
viện trợ kinh tế hàng năm, một con số khiêm tốn nếu so với hàng tỉ mỹ
kim của chương trình Marshall tái thiết Đức và Nhật, hai nước này phải
cần đến 20 năm để vươn lên, thì thành quả công việc của chính phủ Ngô
Đình Diệm trong chín năm (1954 – 1963) phải nói là kỳ diệu, nhưng rất
ít được các sử gia Tây phương chú ý. Vừa phải đương đầu với cuộc xâm
lăng của đại khối cộng sản quốc tế do Nga, Hoa dẫn đầu với đạo quân
tiền phong là binh đội Bắc Việt, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa vừa phải
cố gắng phát triễn nền kinh tế đất nước. Trong lúc Việt Nam Cộng Hòa
nỗ lực ngăn chống đạo âm binh cộng sản, thì những nước láng giềng như
Thái, Mã Lai, Phi, Nam Dương, Đại Hàn, Nhật Bản được thảnh thơi nhàn
nhã tập trung tài nguyên, vật lực kiến tạo đất nước trở thành những con
rồng, con hổ Á châu. Đặc biệt, Nhật Bản là nước được hưởng lợi rất
nhiều và phất lên như diều gặp gió từ cuộc chiến tranh Việt Nam hai
mươi năm, nhưng là nước nhận người Việt tị nạn ít nhất. Hành động hiếp
đáp, giết chóc, hãm hiếp, xua đuổi của quân đội và viên chức các nước
Thái, Mã, Phi, Nam Dương nhắm vào người Việt tị nạn là hành động bội
bạc với dân tộc nước ân nhân của họ. Chính dân tộc những nước ấy phải
tri ân dân tộc Việt Nam đã đổ máu xương làm bức tường thành ngăn chống
làn sóng cộng sản.
Ngày nay, trong thập niên đầu của thế kỷ thứ 21, không còn bức tường
thép Việt Nam Cộng Hòa nữa, các nước Đông Nam Á đã xun xoe, bợ đỡ cộng
sản Việt Nam để mong chúng cho được yên thân. Các chính quyền Mã Lai,
Nam Dương khiếp sợ Việt cộng, đã cho đập bỏ những bia tưởng niệm thuyền
nhân trên những đảo xưa. Nhưng thí dụ rõ nét nhất là việc tư pháp Thái
Lan trong tháng 9.2006 vừa qua, bất chấp đạo lý và công lý, đã chịu
khuất nhục, khom lưng tuân lệnh cộng sản Hà Nội cho dẫn độ anh hùng Lý
Tống về Việt Nam thụ án. Không còn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, trước
sức ép kinh khủng của Trung Cộng, cái gọi là Quân Đội Nhân Dân của Hà
Nội đã run sợ mất mật, chịu cúi đầu quy phục làm bọn hàng thần lơ láo
cho kẻ thù Bắc phương. Mao Trạch Đông, Chủ Tịch Trung Cộng bấy giờ có
lần tìm cách liên lạc với Việt Nam Cộng Hòa đề nghị hai bên thiết lập
quan hệ ngoại giao cấp đại sứ, nhưng Tổng Thống Diệm đã thẳng thắn từ
chối.
Có ít nhất ba nhân vật quan trọng Hoa Kỳ đóng góp vào sự hưng thịnh
của nước Việt Nam Cộng Hòa non trẻ trong những năm đầu thập niên 1950.
Thứ nhất, Trung Tướng O’ Daniel, Tư Lệnh Phái Bộ Quân Viện Hoa Kỳ tại
Việt Nam MAAG (Military Assisistance Advisory Group) đặc trách giúp đỡ
xây dựng Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa hùng mạnh. Những người kế nhiệm
Tướng O’Daniel theo thứ tự là Harkins, Westmoreland, Abrams và Weyand.
Thứ hai, Trung Tướng Lawton Collins, phái viên đặc biệt của Hoa Kỳ tại
Việt Nam, đặc trách quan sát và thẫm định tình hình Việt Nam. Thứ ba,
Đại Tá Không Quân Edward Lansdale, chỉ huy trưởng phân bộ CIA (Central
Intelligence Agency) tại Việt Nam, cùng với một cộng sự viên rất đắc
lực là Trung Tá Lucien Conein, một chuyên viên CIA chuyên trách tổ chức
những lực lượng bí mật nhảy toán phá hoại Miền Bắc, viễn thám sang
Lào. Về sau, Conein đã là nhân vật tiếp nhận kế hoạch đảo chánh Tổng
Thống Diệm của nhóm sĩ quan VNCH, nên còn có thêm biệt danh “Chuyên
viên đảo chánh”. Trong số những yếu nhân này, thì Lansdale tỏ ra là con
người nhiệt tình và có rất nhiều thiện cảm vơi ông Diệm hơn cả. Giữa
hai người đã hình thành một tình bạn rất sâu sắc, mà ông Lansdale đã có
nhiều dịp thể hiện, bằng cách giúp ông Diệm vượt qua được nhiều cơn
sóng gió.
Trung Tướng Collins từng có mối quan hệ thân thiết với tướng Paul
Ely, Cao Ủy Pháp tại Việt Nam, trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Ely dĩ
nhiên không thích ông Diệm, vì ông Diệm đang tìm cách tống khứ 150 ngàn
quân Pháp ra khỏi Miền Nam sau Hiệp Định Geneve 1954, trong khi Pháp
muốn nấn ná ở càng lâu càng tốt, nên đã lời ra tiếng vào nói xấu ông
Diệm để lung lạc niềm tin của Collins. Collins là một con người hách
dịch, cao ngạo. Ông ta tưởng rằng hào quang chiến thắng của Mỹ ở trong
thế chiến có thể đè bẹp và khuất phục được vị tổng thống của một tiểu
quốc, nhưng trong rất nhiều lần, Tổng Thống Diệm đều rất cứng rắn bảo
vệ chủ quyền và sự tự quyết của quốc gia. Mọi việc thảo luận giữa
Collins và ông Diệm đều diễn ra trong một bầu không khí bình đẳng tối
đa có thể được. Với Tổng Thống Diệm, một con người Uy Vũ Bất Năng
Khuất, anh đến đây giúp tôi với tư cách là bạn, chứ không phải là ông
chủ. Một nhân viên cao cấp dưới quyền Collins đã phản ảnh chính xác
thái độ ngạo mạn của Collins, ông ta trả lời ông Trần Trung Dung, Phụ
Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng VNCH (chức vụ bộ trưởng do Tổng Thống Diệm kiêm
nhiệm), khi ông Dung đề nghị hãy để cho VNCH tự do tổ chức quân đội
theo mô thức Việt Nam : “Người nào trả tiền, thì người đó quyết định”.
Lansdale là một cái đệm đứng giữa dung hòa mọi khuynh hướng. Chính ông
đã xác định với Tổng Thống Eisenhower, rằng Tổng Thống Diệm là con
người của đại cuộc, của thời thế, ngoài ông Diệm ra, không còn có ai có
khả năng lãnh đạo Việt Nam. Eisenhower đã tin và mời Tổng Thống Diệm
sang thăm Hoa Kỳ với tư cách quốc khách. Tổng Thống Eisenhower đã đích
thân ra tận chân cầu thang phi cơ niềm nở bắt tay Tổng Thống Ngô Đình
Diệm, cùng duyệt hàng rào danh dự. Tổng Thống Diệm được Quốc Hội Mỹ mời
đến thuyết trình về tình hình Việt Nam. Tổng Thống Diệm đã phát biểu
:”Giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có những sự khác biệt sâu sắc về chủng tộc,
tập quán, khái niệm chính trị, tầm nhìn và triết lý. Tôi hy vọng rằng
chúng ta có thể bắt được nhịp cầu giữa hai nền văn hóa Đông phương và
Tây phương”.
Để đạt đến được đỉnh cao vinh quang ấy trong đời, Tổng Thống Diệm
không phải là đã không trải qua những nỗi cay đắng của cô đơn và những
biến cố cực nguy hiểm đến tính mạng, thanh danh và sự nghiệp chính trị
của ông trong những năm đầu tiên trở về nước, chỉ với hai bàn tay trắng
cùng một tấm lòng, giữa một trùng vây các thế lực sứ quân và thù địch.
Trong thời điểm mập mờ của năm 1954, tình hình chính trị tại Miền Nam
rất rối rắm, vì chính phủ của Quốc Trưởng Bảo Đại không có thực lực,
chỉ dựa vào Pháp, nhưng bản thân người Pháp sau chiến bại Điện Biên Phủ
và phong trào đòi độc lập ở các nước Phi châu như Algeria, Maroc, đã
gây ra rất nhiều nan đề làm người Pháp lúng túng. Quân Pháp cũng không
còn đầy đủ sức mạnh để kiểm soát hay khống chế nhiều thế lực nổi lên ở
Miền Nam, một hình ảnh tương tự như nạn sứ quân thời cuối thế kỷ thứ 10
khi, Ngô Vương Quyền đã tạ thế. Ông Diệm về nước trong bối cảnh hỗn
mang đó, ông tiếp thu dinh Thủ Tướng, được đặt tên là Dinh Gia Long,
tọa lạc trên đường Gia Long, chỉ với vỏn vẹn 12 người lính bảo vệ, và
chỉ có thế. Lansdale đã từng nhiều lần tự do đi vào phòng làm việc của
Thủ Tướng Diệm mà chẳng có ai ngăn cản hay xét hỏi gì cả. Khi ông Diệm
đã được quốc dân bầu làm tổng thống và chính thức làm việc trong Dinh
Gia Long năm 1955, Lansdale bỏ công qua Phi nhờ Tổng Thống Magsaysay
gởi chuyên viên quân sự là Đại Tá Arellano sang Sài Gòn giúp thành lập
một tiểu đoàn phòng vệ phủ tổng thống. Tiểu đoàn này sau được nâng lên
thành Liên Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, với những binh sĩ ưu tú được
tuyển chọn từ những đơn vị xuất sắc của quân đội. Thành Cộng Hòa là một
tòa nhà nhiều tầng khá kiên cố nằm gần Dinh Gia Long, đã được dùng làm
nơi trú ngụ của sĩ quan và binh sĩ Liên Đoàn, nên mỗi lần có đảo
chánh, thì quân đảo chánh phải khống chế hay triệt hạ cho được Thành
Cộng Hòa.
Những vị thủ tướng tiền nhiệm, chỉ hữu danh nhưng vô thực, ít quyền
lực và không có quân đội yểm trợ, ông Diệm kiên quyết không dẫm lên vết
xe đỗ của họ. Nhưng bắt đầu từ cái gì và dựa vào lực lượng nào. Thật
may mắn cho Thủ Tướng Diệm, hầu hết các chiến sĩ thuộc Quân Đội Quốc
Gia Việt Nam thời Bảo Đại di cư từ Bắc vào như Nhảy Dù, Bộ Binh,
Commandos, đã tỏ lòng trung thành với tân Thủ Tướng, trong đó có nhiều
chiến sĩ người thượng du như Mường, Thái, đặc biệt là Nùng. Dựa trên
nền tảng đó, Thủ Tướng Diệm quyết định thanh toán các thế lực sứ quân
để gom giang sơn dân tộc về một mối. Đối thủ của ông là những ai. Câu
trả lời sẽ làm người đời sau sửng sốt. Rất nhiều, gần đạt con số 12 sứ
quân thời ngài Đinh Bộ Lĩnh.
Thứ nhất : Thế lực mạnh nhất trong phe quốc gia đối đầu với Thủ
Tướng Diệm lại chính là Quốc Trưởng Bảo Đại. Ông Bảo Đại là một người
có lòng với tương lai của đất nước, nhưng khốn nỗi từ thuở nhỏ ông đã
bị người Pháp nhồi nhét cho một nền giáo dục vong bản, nếp sống xa hoa,
thượng lưu vương giả, nên ít nhiều gì thì tư tưởng của ông đã chịu rất
nhiều ảnh hưởng của Pháp. Bảo Đại sinh năm 1913 với tên Nguyễn Vĩnh
Thụy, từ lúc biết nói biết hiểu thì người Pháp đã cho vú nuôi Pháp chăm
sóc và thầy dạy người Pháp giáo dục theo kiểu Pháp. Năm ông 8 tuổi,
Pháp đem ông sang Paris để vị hoàng tử trẻ ấy không còn cơ hội tiếp túc
với nền văn hóa truyền thống Việt Nam và ý chí phục quốc nữa, rút kinh
nghiệm từ vị vua trẻ 16 tuổi Duy Tân trước đó. Hoàng đế Khải Định, cha
ông, mất năm 1925, nhưng mãi đến năm 1932 Vĩnh Thụy mới được Pháp đưa
về lên ngôi, lấy đế hiệu là Bảo Đại, để bảo đảm rằng vị tân vương thục
sự là một người thân Pháp toàn tâm toàn ý. Trong thời gian ở Pháp, Vĩnh
Thụy được người Pháp cấp cho lương bỗng hàng năm rất hậu lên đến hàng
triệu đồng Đông Dương, cho tương xứng với cuộc sống xa hoa của một đế
vương, dụng ý muốn làm hư hỏng vị vua trẻ.
Tuy mang nhiều tai tiếng ăn chơi, đàn đúm trong những nhà chứa, hộp
đêm sang trọng, nhưng tiếng gọi tha thiết của cố hương vẫn tiềm tàng
trong tận đáy tim, vua Bảo Đại đã cố gắng trong khả năng rất hạn chế
của mình, làm được nhiều việc có ý nghĩa. Chính phủ của Thủ Tướng
Nguyễn Văn Xuân dưới quyền Quốc Trưởng Bảo Đại trong năm 1946 đã chọn
được bài quốc ca Tiếng Gọi Công Dân và lá quốc kỳ Vàng Ba Sọc Đỏ làm
biểu tượng thiêng liêng của nước Việt Nam độc lập. Hai biểu tượng
thiêng liêng này vẫn còn tồn tại mãi đến ngày nay trong lòng người dân
Việt.
Quốc Trưởng Bảo Đại chọn ông Ngô Đình Diệm làm thủ tướng, nhưng vẫn e
dè tài năng và quyền lực của ông Diệm sẽ lấn át ông. Nhưng khốn nỗi,
Bảo Đại dành quá nhiều thời gian ngụ cư ở Pháp nhiều hơn là về Việt
Nam. Chọn ông Diệm, Quốc Trưởng Bảo Đại đã đặt hai điều kiện tiên quyết
: Giành lại độc lập cho nước nhà và kiến thiết Việt Nam hùng mạnh. Nếu
ông Diệm không làm được hai việc đó thì hãy trả chính quyền lại cho
ông. Thủ Tướng Diệm đã long trọng thề với Quốc Trưởng, ông sẽ làm được.
Chuyện này đã do chính ông Bảo Đại kể lại trong cuốn hồi ký Dragon
d’Annam (Con Rồng Nước Nam). Ông Diệm càng đạt được nhiều thành quả tốt
đẹp thì Bảo Đại càng cảm thấy mình kém thế, vì vậy ông đã ủng hộ Trung
Tướng Nguyễn Duy Hinh, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia và nhóm
Bình Xuyên, nhiều lần tìm cách lật đổ ông Diệm. Bởi ông Bảo Đại không
còn giúp ích được gì cho nước nhà, nhân có một chỉ dụ của ông ngày
19.4.1956 từ bên Cannes lệnh cho Thủ Tướng Diệm phải sang trình diện,
với ý định sẽ bãi chức Thủ Tướng của ông.
Một cuộc Trưng Cầu Dân Ý đã được tổ chức trong ngày 23.10.1956 do
Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng gồm nhiều nhân sĩ của các đảng phái và giáo
phái ủng hộ Thủ Tướng Diệm đề xuất. Bản thân Thủ Tướng cũng khôn
glường được sự tiến triễn bất ngờ của tình thế, ông đã vô cùng sửng ost
khi buổi chiều ngay 20.4.1956, sau 7 tiếng đồn ghồ thảo luận căng
thẳng, Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng đã mời ông Diệm đến thông báo quyết
định truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại. Là một sĩ phu nặng lòng trung quân
và ái quốc, một con người từng nghiềm ngẫm nghĩa lý Tứ Thư, Ngũ Kinh,
với những tấm gương trung liệt trong đó, Thủ Tướng Diệm chưa bao giờ
dám có ý nghĩ phạm thượng với vua Bảo Đại. Nhưn ghội đồng biết rõ rằng,
nếu Thủ Tướng đi sang Pháp trình diện ông Bảo Đại, thì chuyến đi đó
lành ít dữ nhiều và có thể vĩnh viễn biệt xứ. Hơn 5 triệu người dân đi
bầu. Kết quả, có đến 98,2% số phiếu ủng hộ ông Diệm trong cương vị Tổng
Thống và đồng ý cho Quốc Trưởng Bảo Đại giải nhiệm. Phía Hoa Kỳ không
được hài lòng lắm với tỉ lệ quá cao như thế, nó có vẻ không thực, hy
vọng khoảng 70% là lý tưởng nhất. Ngày 26.10.1955, ông Diệm tuyên thệ
nhậm chức tổng thống, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa, cải
danh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thành Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, đồng
thời thông báo trước quốc dân sẽ tổ chức bầu cử quốc hội vào đầu năm
1956. Người dân thời ấy và các thế hệ sau nợ Tổng Thống Diệm danh xưng
đầy hãnh diện : Được làm công dân của nước Việt Nam Cộng Hòa. Những
người lính chiến đấu dưới Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ nợ vị Tổng Tư Lệnh Tối
Cao danh xưng lắm kiêu dũng : Người Lính Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 26.10.1956, Quốc Hội đầu tiên của Việt Nam thông qua Bản Hiến
Pháp, Tổng Thống Ngô Đình Diệm long trọng ban hành với lời xác tín :
Sau Hiến Pháp còn có tôi ! Ngụ ý người kiên quyết bảo vệ Hiến Pháp và
luật pháp quốc gia. Nền dân chủ sơ khởi của nước cộng hòa non trẻ bắt
đầu từ đấy.
Thứ hai : Trung Tướng Nguyễn Duy Hinh, nguyên là Trung Tá Không
Quân trong quân đội Pháp, cưới vợ Pháp và nhập tịch Pháp, cha ông là
cựu Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm rất thân Pháp. Quốc Trưởng Bảo Đại đã cất
nhắc Trung Tá Hinh lên Thiếu Tướng, giữ chức vụ tư lệnh Quân Đội Quốc
Gia Việt Nam, với dụng ý củng cố vị thế của ông. Một thời gian sau, ông
Hinh được thăng Trung Tướng. Trong thời điểm chân ướt chân ráo mới về
đến quê hương, ông Diệm buộc phải chấp nhận ông Hinh. Người Mỹ càng hậu
thuẫn ông Diệm bao nhiêu, thì người Pháp càng chơi trò ném đá dấu tay
phá thối Thủ Tướng Diệm, bằng cách xúi dục Trung Tướng Hinh làm phản.
Ông Hinh nhiều lần cho xe thiết giáp và bộ binh đến bao vây dinh Thủ
Tướng để thị uy, nhưng ông Diệm có Tướng Collins và Đại Tá Lansdale bảo
vệ. Khi quân đội trung thành với ông Diệm đem quân đến bao vây trả
đũa, thì Bộ Tư Lệnh Pháp chậm trễ việc cung cấp tiếp liệu, xăng nhớt di
chuyển, thậm chí thiết lập nhiều nút chận gây khó khăn cho quân đội.
Có lần Lansdale đã mời nhiều sĩ quan thân ông Hinh sang Manila, thủ đô
Phi Luật Tân du hí, để tách họ ra khỏi ông Hinh. Đồng thời, chính phủ
Hoa Kỳ trong tháng 10.1954 gửi công hàm báo cho người Pháp biết, Hoa Kỳ
sẽ viện trợ trực tiếp cho Việt Nam không qua trung gian Pháp nữa.
Người Pháp yếu thế dần, không còn hung hăng hỗ trợ ông Hinh tạo phản
nữa.
Tháng 11.1954, dưới sức ép của người Mỹ lên người Pháp, Quốc Trưởng
Bảo Đại ra chỉ dụ bãi chức Trung Tướng Hinh, ông Diệm bổ nhiệm Thiếu
Tướng Lê Văn Tỵ thay thế, sau này ông được thăng lên đến Đại Tướng.
Tướng Hinh ngậm ngùi lên phi cơ về Pháp. Thiếu Tướng Tỵ bắt tay ngay
vào việc nhận bàn giao quyền chỉ huy hoàn toàn quân đội Việt Nam từ
người Pháp, hiệu lực từ ngày 11.2.1955. Quân Đội Quốc gia Việt Nam rẽ
sang một giai đoạn mới và được cải danh thành Quân Đội Việt Nam Cộng
Hòa sau ngày 26.10.1955.
Thứ ba : Là lực lượng quân đội Pháp còn khoảng 150 ngàn người cứ
chùng chình mãi không chịu hồi hương. Thủ Tướng Diệm căm giận lắm, đó
là cái mối quốc nhục mà ông thề sẽ rửa trước anh linh của tiền nhân
tiên liệt. Thực dân Pháp muốn có một chính phủ thân Pháp để duy trì thế
lực Pháp ở Việt Nam. Pháp có nhiều nguồn lợi ở Việt Nam như các đồn
điền trà, cà phê, cao su. Nhiều chủ đồn điền vẫn được chính quyền Việt
Nam hai thời cộng hòa ưu đãi, không động chạm gì đến công cuộc làm ăn
của họ, nhưng những ngưòi này thậm thụt đóng thuế, cung cấp tin tức cho
quân cộng sản Bắc Việt và Việt cộng, dung chứa chúng trong những khu
rừng cao su bạt ngàn, làm một mũi dao lúc nào cũng sẵn sàng thọc sâu
vào tận trái tim nước Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng với sự thất bại của Bảo
Đại, Tướng Hinh, Bảy Viễn, sư quy phục của các giáo phái trước sự kiên
quyết của Thủ Tướng Diệm, lại thêm ngân khoản tài trợ của Hoa Kỳ đã cắt
đứt, người Pháp thấy không còn hy vọng gì, những người lính Pháp cuối
cùng đã lục tục xuống tàu về nước ngày 28.4.1956, đánh dấu chấm hết một
thế kỷ thống trị của người Pháp. Tổng Thống Ngô Đình Diệm, sau mấy năm
đấu trí đấu lược với thực dân Pháp, đã thực sự tống xuất được bọn
chúng ra khỏi nước Việt Nam. Giờ đây, nước Việt Nam Cộng Hòa đã được
hoàn toàn độc lập, uy thế của chính phủ ông Diệm lừng lẫy trên trường
quốc tế, hầu hết các quốc gia không cộng sản, kể cả các nước Ả Rập đều
chính thức công nhận Việt Nam Cộng Hòa và thiết lập quan hệ ngoại giao.
Charles Degaulle, Tổng Thống Pháp rất cay cú, nhưng buộc phải thực
lòng ngợi ca Tổng Thống Diệm là “Winston Churchill của Á châu”, ngụ ý
con người kiệt xuất đã giành được độc lập cho đất nước.
Thứ tư : Là lực lượng Bình Xuyên của Tướng Lê Văn Viễn. Được sự đỡ
đầu và trả lương ngầm của Pháp, lực lượng Bình Xuyên chiêu mộ được đến
25 ngàn thủ hạ, trong đó có 1,500 tay súng. Bình Xuyên là một tổ chức
tột ác, thổ phỉ, một cái gì đó gần giống như Mafia của Ý, vì nó kinh
doanh ngành cờ bạc và nhà chứa, ngang ngược không coi luật pháp quốc
gia ra gì hết. Từ khởi đầu, thì lực lượng Bình Xuyên do một người anh
chị tên Ba Dương lãnh đạo, đã kết hợp với các lực lượng Hòa Hảo và Cao
Đài kháng chiến chống cả Pháp và Việt Minh. Ba Dương bị Tướng Nguyễn
Bình của cộng sản giết chết, quyền chỉ huy rơi vào tay Lê Văn Viễn.
Người Pháp khuyến dụ Bảy Viễn đem lực lượng quy thuận, đổi lại Pháp ban
cấp cho Bảy Viễn bổng lộc và quyền lợi rất hậu.
Năm 1952, Bảo Đại phong cho Lê Văn Viễn, tự Bảy Viễn, cấp bậc Thiếu
Tướng để làm vây cánh và có ý định sẽ đưa Bảy Viễn lên làm Thủ Tướng
sau này. Nhà nước Pháp cũng ân thưởng Viễn huân chương cao quý Bắc Đẩu
Bội Tinh. Tai sao ? Bảy Viễn và Bình Xuyên làm chủ nhiều cơ sở tài
chánh lớn như các sòng bài Đại Thế Giới dành cho lớp thượng lưu giàu có
Pháp và Việt, như cỡ công tử Bạc Liêu và công tử Mỹ Tho chẳng hạn,
sòng bài Kim Chung dành cho giới thấp hơn và giai cấp bình dân lao
động. Có vô số người đã bán vợ con làm nô tì đĩ điếm, mất nhà cửa, sạt
nghiệp, tự tử hay hóa điên vì hai sòng bài tội lỗi này. Chưa hết, nằm
gần bên các sòng bài là các khu nhà chứa đủ mọi hạng, từ deluxe hạng
sang đến hạng hèn, nổi tiếng nhất là nhà chứa Bình Khang ở Vườn Lài.
Công an và binh lính Bình Xuyên kiểm soát những trục lộ huyết mạch Sài
Gòn – Vũng Tàu, Sài Gòn – Rừng Sát, thu thuế các lò mổ thịt. Nguồn tài
chính lớn nhất của Bảy Viễn là việc buôn bán thuốc phiện lậu chở từ
vùng Tam Giác Vàng qua Lào, rồi vào Việt Nam, Bảy Viễn thầu hết. Bảy
Viễn cung ứng cho ông Bảo Đại hàng tháng 500 ngàn đồng và bộ máy thống
trị Pháp một số tiền lớn mỗi ngày lên đến 100 ngàn đồng, nhưng bù lại
hắn cho người Hoa Macau đấu thầu và trả cho hắn mỗi ngày 400 ngàn đồng
tiền Đông Dương. Dẫu sao thì cũng có it nhiều “huyền thoại” về Bảy
Viễn. Có lẽ muốn hù dọa thiên hạ, bên cạnh những nhà điều chế tinh chất
ma túy, Bảy Viễn cất nhiều chuồng nuôi cá sấu đến 12 con. Bên ngoài
phòng ngủ của hắn có một con beo gấm dữ dằn được cột bằng một sợi dây
xích dài. Trên ban công biệt thự, những con trăn gió bò lển nghển thấy
mà... ghê. Chưa hết, có một con cọp mua từ xứ Siberia bên Nga hầm hừ
nằm trong một cái chuồng sắt, mà khi cần thì từ bên trong ngươi ta có
thể bấm nút điện cho cửa chuồng kéo lên, ô hô, thế là con cọp phóng ra
ngoài, kẻ lạ đột nhập toan tính ám sát Bảy Viễn hả, tha hồ mà chạy vắt
giò lên...ót nhé. Người ta đồn rằng có người trông thấy quần áo và
xương người trong lồng cọp nữa, thế có ghê không chứ.
Một con người đạo đức bài phong kiến đả thực dân như Thủ Tướng Diệm
đâu có thể chấp nhận một cái ung nhọt xấu xa tồn tại giữa lòng thủ đô.
Biết chắc Hoa Kỳ đã cắt ngân khoản, Pháp không có tiền trả lương cho
quân Bình Xuyên, Thủ Tướng Diệm quyết định đánh tiêu diệt bọn mafia thổ
phỉ. Nhưng trước hết, ông cần thêm lực lượng của các giáo phái, càng
nhiều càng tốt. Các Tướng Trình Minh Thế, Nguyễn Thành Phương của Cao
Đài, Trần Văn Soái của Hòa Hảo đã xin quy phục chính quyền và đem về
nhiều ngàn quân. Thiếu Tướng Thế được vinh thăng Trung Tướng, ông là con
người tuổi trẻ tài cao, năng nổ, nhiệt thành trong chiến dịch tiêu
diệt Bình Xuyên. Với sự hỗ trợ ngầm của quân Pháp, Bảy Viễn nhiều lần
ngỗ ngáo đem thiết giáp và quân sĩ bao vây dinh Thủ Tướng. Nhưng một
tên vô lại như hắn đâu có phải là đối thủ của một con người kiệt liệt
như Ngô Đình Diệm. Hai tiểu đoàn Dù của Thiếu Tá Liên Đoàn Trưởng Đỗ
Cao Trí đã vây đánh tan nát bản doanh của bọn thổ phỉ mafia nằm trên
đường Trần Hưng Đạo. Quân thổ phỉ Bình Xuyên chỉ giỏi húng hiếp dân
lành, nhưng lại vô cùng hèn nhát trước các chiến sĩ quốc gia, chúng đã
quăng súng bỏ chạy tán loạn. Bảy Viễn cùng Lại Văn Sang, Tổng Giám Đốc
Cảnh Sát, tay chân thân tín nhất của hắn nhanh chân lủi trốn vào Rừng
Sát phía Tây Bắc Sài Gòn, rồi từ đó được tàu Pháp ủi vào đưa về mẫu
quốc.
Đại Tá Dương Văn Minh, tự Minh Cồ (Big Minh), người hùng trong chiến
dịch càn quét Rừng Sát, đã tìm thấy một thùng phuy giấy bạc Đông Dương
của Bình Xuyên. Minh được vời về Sài Gòn cho vinh thăng Thiếu Tướng,
đảm nhiệm chức vụ Tổng Trấn Sài Gòn, dẫn đầu đoàn quân trong buổi duyệt
binh chiến thắng rất hùng tráng tại thủ đô. Minh dấu nhẹm chuyện chiếc
thùng phuy, nhưng tin phong phanh đến tai chính phủ ông Diệm, nhưng
Tổng Thống Diệm cho xếp hồ sơ. Thiếu Tướng Minh lần lượt được chính phủ
tín nhiệm trong những chức vụ chỉ huy cao nhất trong quân đội, như
được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Các chiến dịch Hoàng Điệu 1954, chiến dịch
Nguyễn Huệ 1955, chiến dịch Thoại Ngọc Hầu 1956, Tư Lệnh Liên Khu Thủ
Đô năm 1957, Tư Lệnh Bộ Tư Lệnh Hành Quân 1961. Đầu năm 1963, Tổng
Thống Diệm vinh thăng Trung Tướng và bổ nhiệm Tướng Minh chức vụ Cố Vấn
Quân Sự Phủ Tổng Thốngï, một công việc ngồi chơi xơi nước. Tướng Minh
để tâm thù hận ông Diệm từ đấy. Mối thù càng sâu đậm hơn, khi ông Diệm
bổ nhiệm bốn vị Tư Lệnh Quân Khu, Minh chẳng nắm được vùng nào cả.
Các
Tư Lệnh Quân Khu thời ông Diệm trong năm 1962 – 1963 như sau :
Quân Khu I : Thiếu Tường Đỗ Cao Trí
Quân Khu II : Trung Tướng Nguyễn Khánh
Quân Khu III : Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, kiêm Tổng Trấn Sài Gòn – Gia Định
Quân Khu IV : Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao
Ngay cả cái Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu cũng lọt vào tay Thiếu
Tướng Trần Văn Đôn, Minh chả được xơ múi gì. Được sự chấp thuận ngầm
của Thái Thú Henry Cabot Lodge và Hoa Thịnh Đốn, Minh lệnh riêng cho
Đại Úy Nguyễn Văn Nhung giết chết Tổng Thống Diệm và bào đệ là ông Nhu
trong lòng chiếc thiết vận xa M 113 trong ngày 2.11.1963. Là đảng viên
Đại Việt, Nhung còn có mối thù riêng với Tổng Thống Diệm, vì ông Diệm
đã cho quân đội tấn công hủy diệt chiến khu Ba Lòng ở Miền Trung của
lực lượng Đại Việt. Nhưng đó là chuyện đau lòng sau này. Nếu ông Diệm
bổ nhiệm Tướng Trí làm Tư Lệnh Quân Khu III, rất có thể Tướng Trí vẫn
giữ lòng trung thành, vì Đại Tá Cao Văn Viên cùng binh chủng Nhảy Dù
như ông nhất định không phản, quân đảo chánh sẽ thất bại. Nhưng đó là
số trời, định mệnh oan nghiệt đã dành sẵn chén đắng cho người. Những
năm đầu thập niên 1960, khi chiến sự bùng nổ giữa quân Mặt Trận Giải
Phóng và Quân Đội VNCH, Minh thậm thụt tiếp xúc mấy lần với Tướng Việt
cộng Dương Văn Nhựt, là em trai của ông ta, An Ninh Quân Đội VNCH biết
hết, nhưng Tổng Thống Diệm không muốn làm lớn chuyện, ông cho xếp hồ sơ
lại, vì Tướng Minh chưa có dấu hiệu phản loạn. Đó là sai lầm lớn nhất
trong đời của Tổng Thống Diệm, mà ông sẽ phải trả giá đắt bằng chính
mạng sống của mình.
Cuối tháng 4.1955, tàn quân Bình Xuyên co cụm về cố thủ bên kia cầu
Tân Thuận trong Chợ Lớn. Trung Tướng Thế quả cảm tiến lên phía chân cầu
điều động binh sĩ, nhưng một viên đạn bắn lén oan nghiệt đã giết chết
ông. Một tên xạ thủ núp dưới chân cầu cách Tướng Thế khoảng mười mét
bắn một viên đạn trúng màng tang phải trổ ra mắt trái. Tương Thế ngã ra
chết tức khắc. Chiều ngày hôm sau, khi tình hình chiến sự tạm lắng
dịu, Thủ Tướng Diệm cùng ông Nhu đến viếng xác Trung Tướng Thế. Thủ
Tướng Diệm đã ôm thây người hào kiệt trẻ khóc lớn. Nỗi đau mất một cánh
tay, một cột trụ chống đỡ trong thời buổi loạn binh, ông Diệm ngã ra
ngất xỉu. Đến ngày 3.5.1955 thì quân Bình Xuyên hoàn toàn tan rã, một
số đầu hàng, một số chạy thụt mạng sang Miên trốn, phần khác ẩn tránh
trong các lực lượng giáo phái. Ngay lập tức, Thủ Tướng Diệm cho đóng cửa
những nơi chốn tội ác, trả lại cuộc sống trong sáng và an lành cho
người dân thủ đô. Dưới chín năm cầm quyền của ông, Tổng Thống Diệm không
cho phép một hình thức sa đọa trụy lạc nào được tồn tại.
Sau chiến công này, tài năng lãnh đạo của Thủ Tướng Diệm đã được xác
định. Người Mỹ và thế giới đồng công nhận rằng ông Diệm chính là nhà
lãnh đạo duy nhất không ai có thể sánh nổi tại Việt Nam. Viện trợ Hoa
Kỳ bắt đầu hào phóng đổ vào, dần lên đến 500 triệu mỹ kim mỗi năm. Dân
chúng Việt Nam dần dần quen thuộc với những loại hàng hóa và thực phẩm
mang nhãn hiệu hai bàn tay siết chặt, tượng trưng cho mối quan hệ thân
tình giữa người Mỹ và người Việt Nam.
Thứ năm : Là lực lượng các giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài. Đây là hai
lực lượng lớn tương đương với Bình Xuyên và đã gây nhiều khó khăn cho
chính quyền quốc gia. Từ khởi thủy, các lực lượng giáo phái chủ trương
chống cộng và kháng chiến chống Pháp, nhưng sau Hiệp Định Geneva 1954,
Việt cộng rút về Bắc, quân Pháp hồi hương, các giáo phái trong một tình
trạng lúng túng, vì mục tiêu tranh đấu đã coi như tạm hoàn thành,
tương lai đất nước vẫn mờ mịt. Vấn đề tế nhị và khó giải quyết là,
chẳng lẽ sau bao nhiêu năm gian khổ chiến đấu, giờ đây lại buông súng
quy hàng một con người xa lạ là Thủ Tướng Ngô Đình Diệm từ Hoa Kỳ về,
và một quân đội xa lạ là Quân Đội Quốc Gia đa số từ Miền Bắc di chuyển
xuống. Sự yếu ớt của các chính phủ Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Xuân, Bửu
Lộc trước đây đã là một tiền đề để các giáo phái nghĩ rằng chính phủ
ông Diệm cũng ngã sụm sớm, họ sẽ nhân thời cơ nắm được một vai trò nào
đó. Thủ Tướng Diệm kêu gọi quân đội giáo phái giải giới sáp nhập vào
quân đội quốc gia, các thành phần chỉ huy được cải chuyển sang thành sĩ
quan của một quân đội thống nhứt. Nhiều nhóm vũ trang dưới quyền của
một số tướng lãnh ý thức được sự biến chuyển của tình thế, sự cần thiết
hợp nhất quân đội để tiếp tục ngăn chống làn sóng cộng sản, và công
nhận thiên mệnh đã chọn chí sĩ Ngô Đình Diệm làm người lãnh đạo, chứ
không phải bất cứ ai khác trong số tướng lãnh giáo phái, nên đã kéo
nhau về xin quy thuận. Những tướng Nguyễn Thành Phương, Trình Minh Thế
của Cao Đài, Trần Văn Soái của Hòa Hảo đều được chính quyền quốc gia
trọng dụng và thăng thưởng. Các tướng Lâm Thành Nguyên, Nguyễn Giác Ngộ
của Hòa Hảo chùng chình nửa muốn nửa không, chờ xem những đề nghị
quyền lợi do Đại Tá CIA Lansdale đứng giữa móc nối.
Phật giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Phú Sổ sáng lập, tín đồ cung kính gọi
ngài là Đức Huỳnh Giáo Chủ. Ngài sinh năm 1919 tại làng Hòa Hảo, thuộc
tỉnh Châu Đốc. Thuở nhỏ ngài là một cậu bé ốm yếu và thường bệnh hoạn.
Nhưng trong cái thân thể gầy gò ấy tiềm tàng một sức mạnh siêu nhiên
về tâm linh, ngài luôn trầm tư suy nghĩ về những bí ẩn của đời sống,
chiêm nghiệm chân lý. Năm 1939, lúc chỉ mới 20 tuổi, ngài đã ngộ được
lẽ huyền vi của Phật giáo, rồi ngài bắt đầu cuộc đời đạo hạnh từ đấy.
Đức Huỳnh Giáo Chủ nghĩ rằng, ngài phải đi sâu vào đời sống mọi người
chung quanh, ra tay cứu độ cho những người bệnh tật, thì mới có thể
thuyết phục và thu hút được nhiều tín đồ. Vừa trị bịnh cứu đời, ngài
vừa giảng thuyết Phật pháp. Người dân Miền Tây thuở thập niên 1940 đâu
đã nhiều người được học hành chu đáo, nên Đức Huỳnh đã đơn giản hóa
kinh Phật và phổ kinh vào thơ bằng những từ ngữ dễ hiểu, để cho bất cứ
tín đồ nào cũng có thể cảm nhận được điều huyền diệu của Phật pháp.
Trong lúc đất nước chìm đắm giữa cơn biển lửa chiến tranh, ngài kết hợp
Phật pháp với chủ nghĩa quốc gia, mỗi tín đồ vừa là một Phật tử, nhưng
cũng là một công dân có trách nhiệm chiến đấu lúc tổ quốc nguy biến.
Ngài khuyên tín đồ nên tụng niệm bốn lần mỗi ngày, tán thán hồng danh
chư Phật, tán thán công đức những anh hùng dân tộc như Hai Bà Trưng, Lý
Bôn, Trần Hưng Đạo và Lê Lợi, để hun đúc tinh thần yêu nước. Vì ngài
chủ trương chống thực dân Pháp xâm lược, người Pháp vu khống Đức Huỳnh
giáo chủ là một người điên, nên năm 1940 chúng bắt giam ngài trong một
nhà thương tâm thần. Nhưng ở đây, Đức Huỳnh đã thuyết pháp và thu nhận
làm tín đồ hầu hết những bác sĩ, y tá và nhân viên.
Khi quân Nhật đảo chánh Pháp ngày 9.3.1945, người Nhật đưa ra chiêu
bài “Đại Đông Á” đoàn kết những dân tộc da vàng, ủng hộ những lực lượng
võ trang yêu nước Việt Nam. Lực lượng quân sự của Phật Giáo Hòa Hảo
lúc đó đã kết nạp được đến 15 ngàn chiến sĩ quốc gia. Năm 1946, Đức
Huỳnh thành lập Đảng Dân Xã, thế lực ngày càng bành trướng dần khắp hết
Miền Tây. Một trong những cấp chỉ huy của lực lượng võ trang Hòa Hảo
là Tướng Lê Quang Vinh. Ông là một người chống Pháp rất quyết liệt. Để
khẳng định quyết tâm, năm 1947, Tướng Vinh đã chặt đứt một lóng tay
trỏ, từ đó dân chúng còn gọi ông là Tướng Ba Cụt. Một cấp chỉ huy khác
là Trần Văn Soái, tính nóng như Trương Phi, được binh sĩ kính trọng gọi
là Năm Lửa. Nhận thấy Đức Huỳnh Giáo Chủ đã trở thành một đối thủ
chính trị và quân sự đáng sợ tại Miền Tây, Hồ Chí Minh lệnh cho đàn em
dàn dựng một cuộc hợp thương giữa Việt Minh và Hòa Hảo tại một địa điểm
hẻo lánh là Kinh Đốc Vàng trong ngày 19.4.1946, mời Đức Huỳnh đến rồi
giết chết. Tuy Đức Huỳnh Giáo Chủ đã qua đời, nhưng Việt Minh không thể
tiêu diệt nổi lực lượng võ trang Hòa Hảo, con số tín đồ trong những
năm đầu thập niên 1950 đã lên đến hơn 1 triệu rưỡi người.
Sau khi được quốc dân tín nhiệm bầu làm Tổng Thống trong cuộc bỏ
phiếu ngày 23.10.1955, chí sĩ Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập nước
Việt Nam Cộng Hòa. Bình Xuyên đã bị tiêu diệt hồi tháng 5.1955, giờ đây
Tổng Thống Diệm bắt đầu thanh toán lực lượng Hòa Hảo. Những tướng lãnh
chịu quy phục như Trần Văn Soái, Tổng Thống Diệm trọng dụng và tưởng
thưởng vật chất xứng đáng (Sử liệu của người Mỹ viết rằng CIA đã giúp
Tổng Thống Diệm 12 triệu mỹ kim trong việc này) Những tướng lãnh bất
phục, ông lệnh cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa tấn công không khoan
nhượng. Những trận đánh đẫm máu đã diễn ra, để cuối cùng Tướng Lê Quang
Vinh Ba Cụt bị quân của Đại Tá Dương Văn Minh bắt sống trong tháng
4.1956. Tướng Ba Cụt để tóc dài đến tận vai, ông thề rằng khi nào đất
nước thống nhất thì ông mới cắt tóc. Tháng 7.1956 Tướng Lê Quang Vinh bị
xử chém tại Cần Thơ. Lực lượng võ trang Hòa Hảo của Tướng Ba Cụt tan
rã từ đấy, các binh sĩ phân tán và ẩn tránh vào những vùng thôn quê xa
thành thị chờ thời cơ trỗi dậy.
Đạo Cao Đài được ngài Ngô Văn Chiêu sáng lập từ năm 1878 tại Chợ
Lớn, tiết lộ rằng ngài đã được gặp gỡ đấng toàn năng tối cao là Thượng
Đế qua hiện tượng cơ bút. Biểu tượng thiêng liêng của Cao Đài giáo là
hình Một Mắt, có nghĩa là sự thấu suốt mọi lẽ huyền vi của vũ trụ và
thế giới tâm linh. Đức Ngô Văn Chiêu đưa vào nhiều hình tượng để tán
thán và thờ phượng. Ngoài Đức Phật Thích Ca, còn có Đức Chúa Jesus, Lão
Tử, Khổng Tử, thấp hơn có Jeanne d’Arc (nữ anh thư Pháp), Victor Hugo
(văn hào Pháp), Charlie Chaplin, Laurel va Hardy (đều là các tài tử
điện ảnh Hoa Kỳ), cùng nhiều nhân vật lịch sử, tôn giáo và văn hóa khác
nữa, đều được thờ phượng như những bậc thánh. Với một đạo pháp chủ
trương hòa đồng như thế, rất dễ được quần chúng tin tưởng và chấp nhận,
nên chỉ trong một thời gian ngắn, đạo Cao Đài đã phát triễn toàn khắp
Lục Tỉnh và bành trướng ra đến Miền Trung. Tòa Thánh Trung Tâm đặt tại
Tây Ninh, sinh hoạt nội bộ của hàng giáo phẩm và giáo dân chặt chẽ, gần
giống hình thức bán tự trị (semi autonomous state), một lãnh thổ trong
một quốc gia. Sự kiện này đã làm thực dân Pháp rất lo lắng, khi con số
chiến sĩ trong lực lượng võ trang Cao Đài đã lên đến 25 ngàn người.
Năm 1932, Đức Ngô Văn Chiêu qua đời, ngài Hộ Pháp Phạm Công Tắc lên
chấp chưởng công việc. Đầu những năm 1950, tín đồ Cao Đài đã lên đến
gần 2 triệu người.
Song song với cuộc bình định lực lượng võ trang Hòa Hảo, Tổng Thống
Diệm bắt đầu chiến dịch chinh phạt lực lượng võ trang Cao Đài. Với sự
giúp sức của CIA Mỹ, qua trung gian của Đại Tá Lansdale, Thiếu Tướng
Trình Minh Thế, Thiếu Tướng Nguyễn thành Phương chịu quy thuận với
những thăng thưởng cấp bậc và vật chất rất hậu từ phía chính phủ (sử
liệu Mỹ tiết lộ CIA đã giúp 1 triệu mỹ kim). Cuối năm 1955, Quân Đội
VNCH tấn công vào chiến khu Tây Ninh. Trước ý chí sắt đá của Tổng Thống
Diệm, rằng ông không bao giờ chấp nhận nạn sứ quân trong một quốc gia
có một chính phủ dân cử hợp pháp, thêm tin tức bất lợi và đẫm máu từ
phía mặt trận Hòa Hảo dồn dập bay về, Hộ Pháp Phạm Công Tắc buộc phải
đào thoát sang Cao Miên trong tháng 2.1956. Phần lớn binh sĩ Cao Đài
buông súng xin quy hàng, số còn lại tản mác về Miền Tây.
Như vậy là đã xong những thế lực sứ quân lớn, các lực lượng võ trang
giáo phái đã lụi tàn, nhưng giáo dân Hòa Hảo và Cao Đài vẫn được tự do
tín ngưỡng và hành đạo của mình. Chẳng những thế mà chính quyền ông
Diệm còn giúp đỡ trùng tu, xây dựng chùa, đền, tòa thánh. Sự kiện này
chứng minh rằng, bản thân Tổng Thống Diệm, người không bao giờ chủ
trương kỳ thị tôn giáo. Ngoài tư cách là một tín đồ Thiên Chúa giáo,
ông còn là một nhà nho Khổng giáo, một kẻ sĩ chân chính luôn tôn trọng
đạo lý và lẽ công bằng. Quan niệm rằng tín đồ bất cứ đạo giáo nào chỉ
nên trau giồi phần đạo đức và tâm linh, Tổng Thống Diệm luôn tích cực
hỗ trợ cho công việc thiêng liêng đó. Nhưng không thể lợi dụng tôn giáo
để bạo động và hùng cứ. Quân đội phải được hợp nhất thành một sức mạnh
để bảo vệ đất nước. Ông cũng áp dụng quan niệm đó với lực lượng Phật
giáo, nhưng đấy lại là một câu chuyện khác đầy rối rắm mang rất nhiều
màu sắc chính trị, có sự nhúng tay của Mỹ và cộng sản để đánh đổ người.
Thứ sáu : Ngoài các thế lực Hòa Hảo, Cao Đài, chính quyền trung
ương cũng chú ý đến thành phần người Thượng và người Miên. Người Thượng
sống tập trung hầu hết trên vùng đồi núi cao nguyên Miền Trung, có đến
hơn 40 chủng tộc, trong số này có rất nhiều chủng tộc rất gần cận với
người Miên, nói với nhau và hiểu nhau được. Người Thượng không ưa người
Kinh, cả quốc gia lẫn Việt cộng, vì họ chịu thuế má nặng nề từ hai
phía thuở các vua Kinh và thời Pháp thuộc, cùng các triều Nguyễn, rồi
thời Việt Minh. Phong trào FULRO (Front unifié de liberation des races
opprimées) : Mặt Trận Liên Hiệp Những Dân Tộc Bị Áp Bức) trong những
thập niên 1960 về sau, tập họp người Thượng, chủ yếu từ các sắc tộc lớn
như Sedang, Rhade, Jarai, Ede, đòi thành lập một quốc gia riêng do
người Thượng điều hành, về sau lại có thêm các sắc tộc Chàm và Khmer.
Các thời Cộng Hòa Nhất và Nhị đều có thành lập Bộ Sắc Tộc để giải quyết
các vấn đề người Thượng, song song với việc chăm lo quyền lợi cho họ.
Người Miên có khoảng 600 ngàn người sống tập trung ở Tây Ninh, Bình
Dương, nhưng đa số quy tụ ở Miền Tây như Ba Xuyên, Vĩnh Bình, Châu Đốc
và An Xuyên. Người Miên hận thực dân Pháp đô hộ, oán người Việt chiếm
đoạt phần Thủy Chân lạp trong mấy trăm năm Nam tiến. Bị người Việt Nam
coi thường, khinh chê họ là giống dân lạc hậu, nên mỗi khi có dịp dậy
giặc Cáp Duồn (giết người Việt) ở những vùng biên giới, người Miên tàn
sát người Việt rất dã man. Sau Thế Chiến Thứ Hai, một nhóm ngjời Miên
thành lập lực lượng kháng chiến Khmer Kamphuchea Krom chống Pháp, đánh
cả luôn Việt Minh và Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, với ý đồ đoạt lại vùng
Thủy Chân Lạp. Năm 1956 là một năm binh lửa, khi Quân Đội VNCH mở
nhiều mặt trận đánh các lực lượng võ trang Hòa Hảo, Cao Đài, và quân
Khmer. Quân đội quốc gia đã gặp phải sự kháng cự quyết liệt của lực
lượng Khmer Kampuchea Krom. Quân Việt tấn công dữ dội, tiêu diệt nhiều
ngàn quân Miên, đẩy lùi quân Krom chạy dạt về bên kia biên giới. Sau
cuộc chiến, người Miên cam chịu khuất phục, họ được chính phủ Việt Nam
bảo vệ, được tự do làm ăn sinh sống, canh tác và sở hữu, thi hành nghĩa
vụ công dân như bất cứ người công dân Việt Nam nào.
Thứ bảy : Người Thiên Chúa giáo Miền Bắc di cư vào Miền Nam khoảng
600 ngàn người trong số 700 ngàn đồng bào, thành phần còn lại là Phật
giáo, cộng thêm 300 ngàn binh sĩ quốc gia và gia đình, các thành phần
viên chức, công nhân, thương gia, và tất cả những ai tin rằng nếu ở lại
sẽ bị cộng sản đày ải hay tàn sát. Lực lượng Quân Đội Quốc Gia giảm
xuống còn 150 ngàn chiến sĩ, sau khi người Mỹ đề nghị Thủ Tướng Diệm
cho giải ngũ một nửa quân số. Đồng bào di cư bao gồm nhiều thành phần
trí thức, có một nền học vấn vững chắc, nói tiếng Pháp lưu loát, có
kiến thức, siêng năng và cần mẫn, nên chẳng mấy chốc, khối Thiên chúa
giáo đã trở thành một thế lực kinh tế, tài chính và chính trị lớn tại
Miền Nam. Tổng Thống Diệm không chủ trương đưa Thiên Chúa giáo, hay Công
giáo lên vị trí độc tôn, nhưng người ta tin rằng ông đã dành rất nhiều
tin tưởng và tín nhiệm người Công giáo, vì khối người này có lập
trường quốc gia chống cộng rất kiên quyết và hậu thuẫn ông trong mọi
chủ trương. Nhưng nói ông Diệm dung túng, bênh vực người Công giáo thì
không đúng. Ông là con người có cao kiến và rất thận trọng trong vấn đề
này, bằng chứng là hầu hết những viên chức làm việc trong Phủ Tổng
Thống chung quanh ông đều là tín đồ Phật giáo, thí dụ như ông Võ Văn
Hải, Chánh Văn Phòng; ông Quách Tòng Đức, Đổng Lý văn phòng; ông Nguyễn
Thành Cung, Tổng Thư Ký; ông Trần Sử, Bí Thư; ông Tôn Thất Thiết, nội
dịch và ông Nguyễn Bằng, cận vệ. Những linh mục chăn dắt giáo xứ Bùi
Chu và Phát Diệm là Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi, thủ lãnh Lực Lượng Đại
Đoàn Kết là linh mục Hoàng Quỳnh không thích Tổng Thống Diệm, vì ông đã
thẳng thắn bác bỏ nhiều yêu sách quá đáng của họ.
Con số người Công giáo từ Miền Bắc dần dần tăng trưởng đã lên đến
hơn 1 triệu rưỡi người. Những người có tài năng và học thức đều được
trọng dụng làm việc trong guồng máy quốc gia, những thành phần ưu tú
trong quân đội đã trở thành những cấp chỉ huy cao nhất. Đối với đồng
bào thường dân, chính phủ ông Diệm đã lập được kỳ công, thiết lập 319
xã định cư, phân phối đất canh tác cho, trợ cấp tài chánh đến khi đồng
bào đã có thể tự sinh sống được. Chính phủ gởi 400 ngàn đồng bào xuống
Miền Tây canh tác ở những vùng đất có người Miên dọc theo biên giới như
khu vực Cái Sắn, Kiên Giang, vùng Kinh Thoại Ngọc Hầu và Kinh Vĩnh Tế ở
Châu Đốc. Đồng thời, 100 ngàn dân di cư được đưa lên cao nguyên Quân
Khu II nhận đất khai khẩn và canh tác ở khu vực các tỉnh Darlac, Lâm
Đồng, Kontum, v.v.. bên cạnh các sắc tộc Thượng. Chúng ta thấy ngay cái
thế chiến lược mà một con người nhìn xa trông rộng như Tổng Thống Diệm
đã bố trí. Nửa triệu đồng bào di cư ở những khu vực đó hình thành
những vòng cung làm phên dậu che chở cho nền an ninh của Việt Nam Cộng
Hòa, đồng thời mở rộng sản lượng nông nghiệp quốc gia, khai khẩn đất
hoang hay đất rừng, góp phần tăng trưởng nền kinh tế.
Luôn luôn quan sát chính phủ và khối Công giáo bằng một nhãn quan
nghi ngờ, là đại khối Phật giáo ở Miền Nam. Nói chính xác hơn, là thành
phần ni sư ở cấp cao trong giáo hội Phật giáo. Với con số tín đồ chiếm
đến 90% dân số (mặc dù trong hệ thống Phật giáo chẳng có bằng chứng
nào ghi nhận sự quy y chính thức của mỗi tín đồ, người dân chỉ đơn giản
thờ phượng chư Phật, đi chùa lễ Phật mỗi dịp lễ lạc quan trọng, song
song với việc thờ phượng tổ tiên, ông bà), giáo hội Phật giáo luôn dè
chừng nguồn tin rằng người Công giáo vận động chính phủ công nhận Công
giáo là quốc giáo. Nhưng Tổng Thống Diệm, dù rất kính sợ anh mình là
Ngô Đình Thục, Tổng Giám Mục giáo phận Vĩnh Long, rồi giáo phận Huế,
ông không bao giờ cho phép chuyện đó xảy ra. Tất cả mọi tôn giáo đều có
vị trí xứng đáng của mình trong lòng dân tộc. Nhưng khốn nỗi, những
giáo phẩm cao cấp của các tôn giáo, vẫn còn rất nặng lòng sân si, chấp
mê vinh quang phù phiếm và sắc tướng, đâu có được tấm lòng thánh khiết
cao cả như người.
Năm 1957, giám mục Ngô Đình Thục cố vận động Tòa Thánh Vatican bổ
nhiệm làm Tổng Giám Mục Sài Gòn, nhưng Đức Giáo Hoàng Pius XII chỉ thỏa
mãn một nửa, với trách vụ giáo phận Huế, một vùng đất tiềm tàng nhiều
bất trắc. Dù Tổng Thống Diệm đã rất siêng năng đi thăm viếng khắp các
chùa chiền, trò chuyện thân mật với sư sãi, nhưng cái khoảng cách thân
tình giữa một vị lãnh đạo và những giới chức Phật giáo vẫn chưa thu
ngắn được mấy. Một vị Tổng Thống đã hạ mình xuống ngang hàng với mọi
thành phần dân chúng như thế, mà vẫn chưa nhận được sự hài lòng của mọi
người, thật tội nghiệp cho ông. Người đã làm tất cả những gì phải làm
để chứng tỏ ông là một con người của đại chúng, của mọi thành phần
chính kiến, mọi tư tưởng, chứ ông không phải là của riêng một thế lực
hay tôn giáo nào. Đó là sự thật, mà ngày nay mỗi năm đến ngày 2.11,
người Việt quốc gia đều trang trọng làm lễ Cầu Hồn cho Tổng Thống Ngô
Đình Diệm để giải oan cho người và để tôn vinh một chiến sĩ quốc gia
luôn nặng lòng tận tụy với tổ quốc và dân tộc đến giây phút cuối cùng
của cuộc đời.TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM: KẺ SĨ CUỐI CÙNG
Thứ tám : Khi tất cả những lực lượng võ trang giáo phái đã được
bình định, vẫn hãy còn một lực lượng ghê gớm mà sẽ khuynh đảo hai chế
độ Cộng Hòa ở Miền Nam. Đó là lực lượng Việt Minh, rồi sau này được gọi
là cộng sản. Về sau, với sự hiện diện của binh đội Bắc Việt, báo chí
truyền thông Việt Nam Cộng Hòa đã phân biệt hai thành phần quân cộng
sản. Thứ nhất, là Việt cộng, là những binh sĩ nằm trong lực lượng võ
trang của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam do Hà Nội thành lập ngày
20.12.1960 ở xã Tân Lập, tỉnh Tây Ninh, đa số là dân gốc Miền Nam. Thứ
hai, là cán binh Bắc Việt, để gọi những bộ đội xâm nhập từ miền Bắc
vào, đa số chiến đấu trong những lực lượng chính quy.
Khi 100 ngàn bộ đội cộng sản Miền Nam tập kết ra Bắc sau Hiệp Định
Geneva ngày 20.7.1954, thì vẫn còn 10 ngàn người nhận lệnh Hà Nội ở lại
nằm vùng, kiên nhẫn chờ thời cơ nổi dậy, nếu chính phủ Việt Nam Cộng
Hòa không chịu tổ chức cuộc tổng tuyển cử trong năm 1956. Hà Nội đã
tiên đoán đúng, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không ký vào bản văn Hiệp
Định Geneva nên không có trách nhiệm thi hành hiệp định này. Quốc tế
cũng hiểu như vậy, nên không ai có thể trách cứ chính phủ VNCH việc ấy.
Từ cuối năm 1955 đến đầu năm 1960, Quân Đội VNCH vừa tiếp thu những
vùng Việt Minh rút bỏ, vừa mở những cuộc hành quân tiêu diệt cộng phỉ.
Tại sao gọi là cộng phỉ. Trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa có điều
khoản không công nhận hoạt động cộng sản, loại chúng ra khỏi vòng pháp
luật. Mọi hành vi ám sát, bắt cóc, khủng bố, nổ bom chợ búa, trường
học, đào đường, phá cầu, thu thuế dân quê bằng cưỡng bách và giết chóc,
nói chung những hành động phá hoại đều được gọi là phỉ và phải thụ án
hình sự.
Ở Miền Trung, bộ máy mật vụ của ông Ngô Đình Cẩn truy lùng ráo riết
Việt cộng nằm vùng, đồng thời với các thành phần chống đối. Bận rộn với
công vụ ở Miền Nam, việc đón nhận và định cư gần một triệu người Miền
Bắc vào, ông Diệm gần như khoán trắng công vụ Miền Trung cho ông em
trong trách vụ Đại Biểu Chính Phủ ở Miền Trung. Bộ máy của ông Cẩn ở
Miền Trung và mật vụ, cảnh sát ở Miền Nam làm việc hiệu quả đến mức cộng
sản phải la làng lên, rằng quân đội quốc gia bắt bớ, đàn áp dân chúng
“vô tội”. Thật buồn cười, anh phải làm cái gì đó vi phạm luật pháp quốc
gia, thí dụ như anh làm giao liên, tiếp tế, chứa chấp phỉ cộng trong
nhà, dấu súng làm du kích, nuôi quân cộng, ban đêm xách bị đi thu thuế
dân lành, và nhiều tội ác mờ ám khác như bắt cóc, mổ bụng, cắt cổ những
người theo về với phía quốc gia, anh bị bộ máy mật vụ và cảnh sát VNCH
tóm đầu là đúng quá rồi, còn kêu ca nỗi gì. Tại sao người ta bắt ông A
mà không bắt ông B. Là tại vì ông A vi phạm pháp luật, ông B không có
làm gì, nên ban đêm ông B cứ ăn ngon ngủ kỹ. Thí dụ như bây giờ chúng ta
về thành phố Hồ vẹm rải truyền đơn chống cộng, vẹm đương nhiên bủa
lưới bắt, chứ chúng để cho chúng ta tà tà thảnh thơi được sao. Tấm
gương của Đỗ Thành Công trong tháng 8.2006 đấy, chỉ mới về Phan Thiết
nghỉ phép dung dăng dung dẻ với vợ con thôi, là đã bị tống vào nhà đá
rồi.
Toàn Miền Nam, con số cán bộ nằm vùng từ 10 ngàn người giảm xuống
còn 3 ngàn. Cán bộ cao cấp nhất còn ở lại Miền Nam là Lê Duẫn phải bỏ
nhiều công sức và thời gian để gầy dựng lại cơ sở hạ tầng. Duẫn nhiều
lần nài xin Hồ Chí Mính tấn công Miền Nam. Nhưng bản thân đảng Lao Động
(tức cộng sản trá hình) còn nhiều khó khăn cần phải vượt qua và củng
cố thành quả “cách mạng” ngoài Bắc, thêm cuộc khởi nghĩa Quỳnh Lưu,
Nghệ An năm 1956, Hồ thấy chưa đủ sức và thời điểm chưa chín mùi. Điều
mà Hồ có thể làm được là chỉ thị Lê Duẫn cho quân Việt cộng đấu tranh
chính chính trị, song song với tổ chức những cuộc ám sát hàng ngàn viên
chức xã ấp của quốc gia để gây khủng khiếp trong dân chúng và ngăn cản
những người yêu nước làm việc cho chính quyền VNCH. Bầu không khí
khủng bố bao trùm khắp thôn quê Miền Nam. Hầu như cứ qua một đêm, vào
buổi sáng hôm sau, nằm trên một bờ đê hay trên một thửa ruộng cạn nước,
hoặc ngập nước, người dân rùng mình hãi hùng trông thấy những cái thây
người bị cắt cổ máu me đầm đìa, bụng bị mổ lòi ruột gan, trên ngực
ghim một mảnh giấy với mấy hàng chữ : “Bản Án Dành Cho Bọn Làm Việc Cho
Mỹ Diệm”.
Nhưng tất cả những thành phần dân tộc, tôn giáo, chính trị và cộng
sản cũng chưa hội đủ điều kiện cần thiết để có thể làm sụp đổ nền Đệ
Nhứt Cộng Hòa, nếu... không có sự nhúng tay và hậu thuẫn của người Mỹ.
Trước những sự quấy nhiễu, gây rối, hách dịch và ngu dốt về lịch sử,
dân tộc, văn hóa và chính tình Việt Nam của các yếu nhân Mỹ từ Tổng
Thống cho đến các cộng sự viên, Tổng Thống Diệm càng lúc tỏ ra rất cứng
rắn không chịu khuất phục. Ông đã nhận ra rằng sự có mặt của 3,000 cố
vấn Mỹ do Kenndy gởi sang Miền Nam không phải là giúp chính thể VNCH
xây dựng một quốc gia độc lập và hùng mạnh thật sự, mà cốt chỉ phục vụ
cho quyền lợi của người Mỹ và nước Mỹ, giống một con đường đang tách
dần ra hai hướng, càng lúc càng xa cách. Chính phủ VNCH đề nghị chính
phủ Hoa Kỳ giúp xây dựng một nhà máy đúc đạn tiểu liên ở Gò Vấp. Lúc
đầu phía Hoa Kỳ đã chấp nhận, nhưng một thời gian sau đã cho xếp lại dự
án ấy, bởi người Mỹ theo đuổi một chính sách phòng ngừa và ngăn chận
quân đội VNCH tấn công ra Bắc, họ sẽ không cung cấp bất cứ phương tiện
gì để VNCH có được khả năng tấn công. Thời Đệ Nhị Cộng Hòa, chính phủ
mở Ngân Hàng Kỹ Thương ký thác tiền tiết kiệm hàng tháng của mỗi quân
nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ cuối những năm 1960, con số lên đến
vài tỉ đồng, tương đương mấy trăm triệu đô la Mỹ. Người Mỹ e rằng chính
phủ VNCH dùng số tiền này mua thêm súng đạn từ các quốc gia khác, hoặc
thành công trong những kế hoạch phát triễn kinh tế để tự túc hoàn
toàn, không nhận tiền Mỹ nữa, nên đã dàn dựng tấn kịch “tham nhũng”
trong kế toán ngân hàng và Bộ Quốc Phòng, áp lực chính phủ VNCH phải
bồi hoàn số tiền này cho mọi quân nhân, ngừng vĩnh viễn chương trình
tiết kiệm quân đội. Nói một cách chính xác, vụ Kỹ Thương Ngân Hàng là
một trong những dấu hiệu cho thấy chính phủ Hoa Kỳ đã ấn định và chuẩn
bị cái chết của Việt Nam Cộng Hòa rất sớm. Người Mỹ không muốn VNCH
thành công kinh tế, trở thành một cường quốc trong vùng Đông Nam Á, họ
muốn dân tộc Việt mãi mãi đắm chìm trong nghèo đói, từ đó phát sinh nạn
tham nhũng và phải chịu khuất phục, phụ thuộc người Mỹ.
Những cố vấn thân cận của Kennedy đã dùng trí tuệ siêu đẳng của họ
để không phải chiến thắng kẻ thù một cách vinh quang, mà trời ơi, là để
tháo chạy ra khỏi Việt Nam. Có hai khuynh hướng được cân nhắc : Thứ
nhất, thay thế chính phủ ông Diệm bằng một chính phủ dễ nói chuyện và
sai bảo hơn. Thứ hai, hất ông Diệm xuống và dựng lên, trời đất, một
chính phủ có nhiệm vụ tuyên bố “đuổi” người Mỹ ra khỏi Miền Nam. Lúc
ấy, người Mỹ danh chính ngôn thuận rời khỏi Miền Nam trong danh dự.
Chúng ta sẽ thấy các đời tổng thống Mỹ đều rất gắn bó với hai khái niệm
kỳ quái này. Càng kỳ quái hơn, khi người Mỹ đã tìm thấy một con người
có khả năng thực hiện được hai kế hoạch ô nhục đó : Trung Tướng Dương
Văn Minh của cuộc loạn binh 1.11.1963 và Tổng Thống Dương Văn Minh của
cuộc “đuổi Mỹ” và đầu hàng ngày 30.4.1975.
Thật may mắn cho người Mỹ, vụ biến động Phật giáo xảy ra trong tháng
5.1963 là một cái ngòi nổ quá tốt để người Mỹ bê một trái mìn tới cho
nó nổ sập chế độ Đệ Nhứt Cộng Hòa. Cuộc biến động đó thường được nhớ
đến từ sự kiện “Treo Cờ Phật Giáo”. Cuộc oan nghiệt khởi đầu từ việc
những viên chức đầu tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế cho phép treo
nhiều cờ Công giáo ra khỏi khuôn khổ của một thông tư trung ương. Nhân
ngày lễ Phục Sinh đầu tháng 4.1963, Tổng Thống Diệm có đi thị sát dân
tình, ông đã chú ý đến việc treo cờ quốc gia và cờ đạo chưa được nghiêm
chỉnh và đúng cách. Tổng Thống Diệm ký một thông tư lưu ý các tỉnh
thành về thể thức treo quốc kỳ trong những này lễ đạo, không phân biệt
tôn giáo nào. Cờ quốc gia phải được treo ở cổng nhà thờ, chùa chiền,
đền thánh, chính giữa và cao phía trên, đúng kích thước; cờ đạo được
phép treo phía dưới; phía trong được treo bao nhiêu đạo kỳ tùy ý. Đầu
tháng 5.1963, để kỷ niệm lễ ngân khánh 25 năm thụ phong của Tổng Giám
Mục Ngô Đình Thục, tại Huế, nhiều cờ Vatican đã được treo trái với quy
định trong thông tư của Tổng Thống Diệm. Thật bất hạnh cho nước Nam,
tháng 5 trùng với mùa lễ Phật Đản, nên ngày 8.5.1963, Phật Tử Huế treo
cờ đạo cũng trái quy định, giống như vụ cờ Vatican. Anh treo được thì
tôi treo được.
Nếu sự việc ngừng ở đây thì đâu xảy ra thảm kịch đau lòng ngày
1.11.1963 và người Mỹ có đâu cái cớ để nhào vô đánh trống la làng. Vẫn
những viên chức Huế thông báo đồng bào Phật Tử phải tuân theo thông tư
chính phủ, treo đạo kỳ lùi vào bên trong chùa, gây nên một làn sóng
phẫn nộ trong dân chúng. Ngay trong buổi chiều ngày 8.5.1963, một cuộc
biểu tình phản đối tụ tập hàng ngàn Phật Tử trước Đài Phát Thanh Huế,
là nơi đang đọc thông báo. Bầu không khí sôi sục nhưng vẫn còn có thể
kiềm chế được, quân đội quốc gia được gởi đến nhưng không có một hành
động nào sử dụng bạo lực. Đột nhiên có một trái bom nổ bùng lên giữa
đoàn người đang hò hét, gây tử thương một số ít người, trong đó có 7 em
bé. Như một cái ly nước đã quá đầy và tràn, không còn gì ngăn được
lòng căm phẫn của dân chúng. Cán bộ cộng sản nằm vùng trong các chùa
chiền, leo dần lên đến những vị trí đại đức, thượng tọa như Trí Quang,
Thiện Minh,... đổ dầu thêm vào lửa, cố gây tình trạng hỗn loạn tại Huế,
thay vì thể hiện tinh thần bất bạo động, cùng với chính quyền tìm
những phương cách ôn hòa để giải quyết. Trong khi đó thì tất cả chùa
chiền ở các tỉnh thành khác đều tuân thủ thông tư của chính phủ, không
có biến động đáng tiếc nào.
Sự kiện 8.5.1963 đã được báo chí ngoại quốc đăng tải, dĩ nhiên thổi
phồng, cố tạo cho thế giới có một cảm giác ngột ngạt đang diễn ra tại
Việt Nam, chú tâm vào vấn đề Phật giáo, bỏ qua tất cả những thành quả
khác đang trên đà tiến triễn của Việt Nam Cộng Hòa. Đó là cung cách của
báo chí, truyền thông Tây phương và Hoa Kỳ. Sau năm 1975, James Scott,
cựu Đại Úy quân đội Mỹ, từng là cố vấn Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 3, Sư
Đoàn 1 Bộ Binh của VNCH, có nhiều liên hệ với CIA, công bố một bức thư
thú nhận chính anh ta đã được lệnh gài một trái bom nổ chậm để gây ly
gián giữa Phật tử và chính quyền. Kế lý gián ấy đã thành công, cộng với
sự xách động của sư sãi Việt cộng mặc áo nhà tu, đẩy tình hình nội trị
Việt Nam đến một sự căng thẳng giả tạo. Một phái đoàn Liên Hiệp Quốc
xin được vào Miền Nam điều tra những cái mà báo chí ngoại quốc gọi là
“đàn áp tôn giáo” của chính phủ ông Diệm. Phái đoàn điều tra được phép
đi khắp nơi, phỏng vấn một số người, để cuối cùng công bố một kết luận
làm Hà Nội và người Mỹ thất vọng : Tại Miền Nam chẳng có dấu hiệu nào
chứng tỏ chính quyền Ông Diệm đàn áp tôn giáo cả. Song song đó, chính
quyền đồng ý bồi thường thỏa đáng cho các nạn nhân trong tai nạn bom nổ
ngày 8.5.1963, tiếp tục những cuộc thương thảo với các chức sắc lãnh
đạo Phật Giáo. Muốn đốt lên ngọn lửa hận thù, người ta phải dựng nên
một vụ chấn động nào đó tương đương với sự kiện 8.5.1963. Ký giả David
Halbrestam của báo New York Times sáng ngày 11.6.1963 bỗng nhận được
một cú điện thoại nặc danh bảo anh ta đến ngã tư Lê Văn Duyệt – Phan
Đình Phùng để chứng kiến một sự kiện quan trọng. Cùng hiện diện tại đó
còn có nhiếp ảnh viên Malcolm Browe. Tấn bi kịch đã được dàn dựng với
những nhân chứng ngoại quốc, để bảo đảm tin tức và hình ảnh được truyền
bá khắp thế giới.
David và Malcolm đã chứng kiến được tấn bi kịch tự thiêu của hòa
thượng Thích Quảng Đức, 66 tuổi. Cùng với hai nhà sư trẻ hơn, hòa
thượng Thích Quảng Đức từ trên một chiếc xe hơi bước xuống ngồi tọa
thiền trong vòng vây của nhiều tăng ni. Hai nhà sư đổ một thùng xăng
lên người ông, người hòa thượng tự châm diêm quẹt tự thiêu. Tin tức và
hình ảnh ghê rợn đó đã được truyền đi đúng như ý muốn của những người
dàn dựng. Chính phủ Mỹ có cái cớ nhảy vào “cảnh cáo” chính quyền VNCH
hãy thỏa mãn yêu sách của Phật giáo. Phản ứng cứng rắn của chính quyền
đã làm tan đi những hy vọng hòa giải. Tháng 8.1963, quân đội được lệnh
khám xét những chùa chiền, bắt nhiều sư sãi về thanh lọc thành phần
cộng sản nằm vùng. Trí Quang ở chùa Ấn Quang nhanh chân chạy trốn được
vào cơ quan USAID Mỹ ở Sài Gòn. Dĩ nhiên người Mỹ sốt sắng nhận che chở
ngay. Ngày 2.11.1963, ông Ngô Đình Cẩn chạy đến Tòa Lãnh Sự Mỹ tại Huế
xin ông Lãnh Sự John Helble cho tị nạn. Helble lạnh lùng từ chối. Ngày
5.11.1963, Cabot Lodge lệnh cho giải giao ông Cẩn về Sài Gòn trao cho
Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Hai sự kiện này đã nói lên được chính
sách phản trắc của chính quyền Hoa Kỳ. Gần đây nhất, đại sứ Hoa Kỳ tại
Hà Nội, ông Marine đã sống sượng phát biểu về những vụ tự thiêu của tín
đồ Phật Giáo Hòa Hảo phản đối Việt cộng đàn áp tôn giáo như sau
:”Những người tự thiêu là những người cực đoan. Hành động đó làm cản
trở tự do tín ngưỡng của tín đồ”. Mẹ ơi, 43 năm trước cũng chính
người Mỹ ca ngợi “Tự thiêu là hành dộng dũng cảm vì đạo pháp của các
bậc bồ tát” . Thế là thế nào, cùng một miệng Mỹ mà phun ra tới hai
luồng sulfur khác nhau. Nếu cho là lời ông Marine đúng thì hóa ra chế
độ vẹm Hà Nội là một chế độ quá thánh thiện mất rồi. Ô hô !
Trong tình hình sư sãi như rắn mất đầu như thế, lẽ ra Trí Quang nên
làm một cái gì to tát như hòa thượng Thích Quảng Đức để được vĩnh viễn
lưu danh trong Phật sử, thì ông ta đã nhanh chân tẩu thoát trước. Nếu
Trí Quang cùng ngồi tọa thiền trong tù với hàng ngàn sư sãi, thậm chí
dẫn đầu một cuộc tuyệt thực trong đó, thì tác động “chiến tranh tâm lý”
có phải lớn hơn không. Phải chăng đùn đẩy người vô tội chết thay cho
mình, sẵn sàng bỏ chạy trước khi nguy biến là bản chất của người cộng
sản. Sau 1975, những con bài tôn giáo chiến lược của Hà Nội như Trí
Quang, Nhất Hạnh, Minh Châu, ... đều đã lộ diện, như là một yếu tố
chính trị quan trọng trong màn kịch Phật giáo. Nhưng những biến cố đó
vẫn chưa đủ liều lượng làm sụp đổ chế độ. Người Mỹ cần một yếu tố thứ
ba : tướng lãnh VNCH. Vì thế ngay trong tháng 8.1963, Henry Cabot Lodge
được lệnh khăn gói sang Việt Nam. Đến đây tấn thảm kịch 1.11.1963 và
cái chết của anh em Tổng Thống Diệm được bắt đầu.
Ngày thứ Sáu 1.11.1963 oan nghiệt trùng với ngày Lễ Các Thánh, tức
kế tiếp ngay sau ngày Halloween 31.10.1963. Bầu trời buổi sáng nắng
đẹp, đột nnhiên lúc giữa trưa đã trở nên u ám, như báo trước một tấn bi
kịch mà cho đến tận thời điểm hiện tại khi nhớ lại người ta vẫn còn
rùng mình kinh hãi. Không phải vì cuộc đổi đời dâu bể, mà là ghê tởm
cuộc tắm máu hai anh em Tổng Thống Diệm một cách dã man và không cần
thiết của những người cầm đầu cuộc đảo chánh mà họ gọi là “cách mạng”
và những cái gọi là “đồng minh” Hoa Kỳ. Nếu Tổng Thống Diệm cứng rắn
kháng cự đến giây phút cuối cùng, ông có chết giữa vòng lửa đạn thì đó
là cái chết phải đến và xứng đáng. Nhưng ông đã quá tin vào lời chấp
nhận của Tướng Dương Văn Minh, người được Mỹ hậu thuẫn và là người đứng
đầu Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, đồng ý đầu hàng và xin Hội Đồng cho
phép ông và ông Nhu được sống lưu vong nước ngoài. Suốt cuộc đời Tổng
Thống Diệm, ông chỉ ban bố tấm lòng nhân ái tận tụy cho dân tộc chứ
chưa từng nhẫn tâm lừa gạt đối phương một cách trắng trợn như Tướng
Minh.
Đúng 1 giờ ngày 1.11.1963 tiếng súng của quân đảo chánh bắt đầu nổ.
Một lực lượng nhiều tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến làm nỗ lực chính khai
tử nền Đệ Nhứt Cộng Hòa, cùng với những lực lượng hỗ trợ hỏa lực như
Thiết Giáp, tăng viện chiến trường như Nhảy Dù, bao vây Sài Gòn như Sư
Đoàn 5 Bộ Binh và Sư Đoàn 7 Bộ Binh. Đại Tá Cao Văn Viên, Tư Lệnh Nhảy
Dù đã khẳng khái khước từ tham gia đảo chánh, ông suýt bị hạ sát ngay
tại Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng được Trung Tướng Trần Thiện Khiêm can thiệp
cứu thoát và cho người giam lỏng ông. Với lòng trung thành ấy, ông có
đủ phẩm chất được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng tin tưởng giao cho ông
tiếp tục chỉ huy binh chủng Nhảy Dù sau ngày 1.11.1963. Có lẽ trường
hợp Đại Tướng Viên là một sự kiện kỳ lạ và độc nhất trong hàng tướng
lãnh, một con người trung thành với Tổng Thống Diệm lạc lõng giữa đám
Tướng, Tá phản loạn. Tuy vậy, ngày 28.4.1975, khi Tướng Minh nhận bàn
giao chức vụ tổng thống từ Tổng Thống Trần Văn Hương, nhớ lại nỗi oan
khuất và cái chết thảm của Tổng Thống Diệm, Đại Tướng Viên đã xin từ
nhiệm, quyết không chịu cúi lòn dưới trướng của Minh.
1 giờ 05 phút. Quân Cọp Biển TQLC đã chiếm được Tổng Nha Cảnh Sát và
Đài Phát Thanh Sài Gòn không gặp sức kháng cự đáng kể, Bộ Chỉ Huy Lực
Lượng Đặc Biệt bị tràn ngập. Hôm trước, vị Chỉ Huy là Đại Tá Lê Quang
Tung đã bị hạ sát bằng súng lục tại nghĩa trang sau khuôn viên Bộ Tổng
Tham Mưu cùng với anh ông là Trung Tá Lê Quang Triệu, vì cả hai thề giữ
lòng trung thành với Tổng Thống Diệm. Tư Lệnh Hải Quân, Đại Tá Hồ Tấn
Quyền cũng mất mạng. Mất người tư lệnh, các chiến sĩ áo rằn Lực Lượng
Đặc Biệt cam chịu tan rã.
4 giờ 30 phút, suốt ba tiếng đồng hồ, tiếng súng giao tranh giữa hai
lực lượng trung thành và đảo chánh nỗ dòn dã khắp thủ đô. Dân chúng
náo động, xôn xao và chờ đợi tin tức từ Đài Phát Thanh Sài Gòn. Người
ta nhớ lại ba năm trước, cũng vào thời điểm này, ngày 11.11.1960 Đài
Phát Thanh Sài Gòn cũng đã phát thanh lời hiệu triệu của quân đảo
chánh, cùng những bài nhạc hùng quân đội. Nếu một bài nhạc hùng phát
lên trong lúc này, thì đó là dấu hiệu của một cuộc đảo chánh khác. Quả
thật như thế, sau vài phút phát thanh một bản nhạc quân đội, dân chúng
thủ đô và hầu hết các tỉnh Miền Tây qua các làn sóng tiếp vận đã được
nghe lời hiệu triệu của Trung Tướng Dương Văn Minh như sau : “Đồng bào
thân mến, Kể từ giờ phút này, Quân Đội nhất quyết đứng lên để giải
thoát đồng bào ra khỏi ách thống trị độc tài... Ngày mà đồng bào chờ
đợi đã đến, toàn thể Quân Đội nhận định, với chế độ hiện hữu, công cuộc
chống Cộng và kiến quốc của toàn dân sẽ không có hiệu quả...”. Tướng
Minh còn đọc tiếp, với chủ trương tuyệt đối tránh đổ máu, Hội Đồng
Tướng Lãnh đã chấp nhận cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ chức và rời
khỏi Việt Nam ngay lập tức, ông loan báo sẽ có lời từ giã của ông Diệm
trên đài phát thanh với tư cách một công dân bình thường..
Từ dinh Gia Long, Tổng Thống Diệm gọi cho đại sứ Hoa Kỳ, ông Henry
Cabot Lodge, vừa nhậm chức tại Sài Gòn chỉ mới hồi tháng 8.1963. Chân
ướt chân ráo sang Sài Gòn, Cabot Lodge đã rủ rê Trung Tướng Minh, lúc
này là Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống, đang ngồi chơi xơi nước và gãi...
rốn, đi đánh tennis, rồi nhỏ to thủ thỉ những chuyện tày đình. Cũng
cùng thời gian đó, Trung Tá CIA Lucien Conein đến gặp Trung Tướng Trần
Văn Đôn, Tham Mưu Trưởng quân đội để nghe Đôn xác định kế hoạch đảo
chánh đã được soạn thảo và sẵn sàng thi hành. Gần ngày đảo chánh,
Conein có xách một cặp táp chứa 40 ngàn mỹ kim, khoảng hơn hai triệu
đồng Việt Nam, trao cho ông Đôn, có lẽ để chi dùng chuyện cần thiết. Số
tiền này sau ngày 1.11.1963, các tướng phản loạn đã chia nhau mỗi
người một ít. Trời ơi, gần hai ngàn năm trước Judas bán Chúa chỉ với 40
mươi đồng bạc, hai ngàn năm sau, các Tướng bán vị nguyên thủ quốc gia
VNCH cho ngoại bang chỉ với 40 ngàn mỹ kim. Một con số nhơ nhuốc, mà
mỗi khi nhắc lại, hẳn những tướng đảo chánh phải cúi đầu hỗ thẹn.
Cuộc nói chuyện với Cabot Lodge đã diễn ra trong một bầu không khí rất lạnh nhạt và đểu cáng từ phía người Mỹ :
Tổng Thống Diệm : Đang có một cuộc đảo chánh chống lại chính phủ,
ông đại sứ có hay biết gì về việc này không và tôi muốn biết thái độ
của Hoa Kỳ.
Cabot Lodge : Tôi nghĩ rằng tôi không được thông báo tin tức đầy đủ
để có thể trả lời câu hỏi của ngài. Tôi có nghe thấy những tiếng súng
nổ, nhưng không rõ thực hư. Vả lại bây giờ là 4 giờ rưỡi sáng Hoa Thịnh
Đốn, chính quyền Mỹ có lẽ không thể đưa ra được một ý kiến về vấn đề
này.
Tổng Thống Diệm : Nhưng chắc chắn ngài cũng có những ý niệm đại khái
về vấn đề này. Dù sao, tôi cũng là một vị quốc trưởng, tôi đã cố gắng
làm hết bổn phận.
Cabot Lodge : Dĩ nhiên ngài đã làm bổn phận của ngài. Không ai có
thể lấy đi cái công của ngài đối với tất cả những gì ngài đã làm. Nhưng
bây giờ tôi lo ngại cho sự an toàn của ngài. Tôi được báo cáo rằng
những kẻ đảm trách những việc đang xảy ra đề nghị để cho ngài và em
ngài bình yên ra ngoại quốc nếu ngài từ chức. Ngài có nghe biết chuyện
đó không ?
Tổng Thống Diệm : Không....
Cabot Lodge : Vâng, nếu tôi có thể làm được điều gì cho sự an toàn của bản thân ngài, xin ngài cứ gọi tôi.
Tổng Thống Diệm : Tôi đang tìm cách lập lại trật tự, ngài có số điện thoại của tôi.
Tổng Thống Diệm cúp máy không muốn nói chuyện thêm nữa. Một con cáo
già trong ngành nói láo như Cabot Lodge mà lại quá hớ hênh và ấu trĩ
khi ở đầu cuộc đàm thoại chối leo lẻo không biết gì về cuộc đảo chánh,
nhưng sau đó ông ta đã “nghe báo cáo” nói về ý định của các Tướng phản
loạn sẽ để cho ông Diệm và ông Nhu ra đi. Một sự việc tầy trời như thế
mà Cabot Lodge nhẩn nha nói rằng Hoa Thịnh Đốn hãy còn... ngủ. Cứ giả
sử lúc ấy, ngay giây phút đó, một toán Vẹm xông vào tòa đại sứ Mỹ, để
coi Henry Cabot Lodge có són trong... quần và khẩn cấp gọi về Hoa Thịnh
Đốn la làng lên kêu cứu hay không, hay là cứ để cho Kennedy ngủ chán
chê đã. Một kẻ sĩ đầy hào khí và lòng tự trọng như Tổng Thống Ngô Đình
Diệm đời nào người chịu hạ mình van xin sự sống từ bọn người ngoại
chủng bất nhân, bất nghĩa và bất trí ấy. Anh Hùng Tử Khí Hùng Bất Tử .
Qua những giây phút đàm thoại ngắn ngủi với Cabot Lodge, Tổng Thống
Diệm biết chắc người Mỹ đã nhúng tay vào âm mưu ghê tởm này. Chúng có
thể giết được cái xác trần của người, chứ làm sao chúng xóa đi được
thanh danh, cái phần linh hồn tinh túy của một người lãnh đạo chân
chánh Việt Nam. Tôi tiến hãy theo tôi, tôi lùi hãy bắn tôi, tôi chết
hãy trả thù cho tôi. Người đời sau càng phỉ nhổ Kennedy và Cabot
Lodge bao nhiêu, càng trân trọng tôn vinh Tổng Thống Diệm bấy nhiêu.
Trong thời gian đó, Đài Phát Thanh Sài Gòn chính thức loan báo thành
phần tướng lãnh và sĩ quan tham dự cuộc binh biến : Các Trung Tướng
Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Nguyễn Ngọc Lễ, Trần Văn Minh; các Thiếu
Tướng Lê Văn Nghiêm, Mai Hữu Xuân, Trần Tử Oai, Lê Văn Kim, Phạm Xuân
Chiểu, Tôn Thất Đính, Nguyễn Văn Là, Trần Thiện Khiêm, Trần Ngọc Tám và
Nguyễn Giác Ngộ; các Đại Tá Đỗ Mậu, Nguyễn Khương, Dương Ngọc Lắm,
Nguyễn Văn Thiệu; các Trung Tá Lê Nguyên Khang, Khổng Văn Tuyên, Đỗ
Ngọc Nhận và Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Thiệt.
7 giờ 30 phút tối. Tướng Minh gọi điện thoại vào Dinh Gia Long xin
nói chuyện với Tổng Thống Diệm, nhưng ông Diệm từ chối, Minh càng tức
uất, sát khí đã bốc ngùn ngụt trong đầu ông ta.
8 giờ tối. Ông Cao Xuân Vỹ, một nhân vật lãnh đạo cao cấp của Đoàn
Thanh Niên Cộng Hòa, đã tìm đâu ra được một chiếc xe màu đen cũ, có lẽ
là chiếc Traction, chạy vào sau khuôn viên Dinh Gia Long rước Tổng
Thống Diệm và ông Cố Vấn Chính Trị Ngô Đình Nhu vượt qua được vòng vây
quân đảo chánh. Hai anh em ông Diệm đã theo một đường hầm bí mật thoát
ra ngoài. Chiếc xe cũ mèm không ai buồn để ý đến hóa ra lại vô cùng đắc
dụng. Ông Vỹ chở Tổng Thống Diệm chạy vào Chợ Lớn trú ngụ trong nhà
thương gia Mã Tuyên, một người Tàu có nhiều mối giao hảo tốt với gia
đình ông Diệm. Được tin Tổng Thống Diệm đã tìm được chỗ ẩn lánh an
toàn, các chiến sĩ thuộc Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống tổ
chức vị trí kháng cự ở Dinh Gia Long và Thành Cộng Hòa, thề tử thủ và
trung thành với chế độ đến cùng. Quân đảo chánh gặp rắc rối to, các
tướng lãnh chủ chốt như Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân, Lê
Văn Kim và Tôn Thất Đính sợ xạm cả mặt.
Tuy là trong một tình trạng căng thẳng ghê gớm như thế, những chiến
sĩ đôi bên chỉ chỉa súng lên trời nổ lóc bóc ầm ĩ nghe cũng kinh khủng,
xe tăng bao vây coi bộ hầm hừ dữ lắm, thiết giáp bên trong vòng rào
dinh tổng thống cũng chỉa ra nghênh chiến. Tình thật thì chẳng người
lính nào nỡ hạ súng xuống bắn vào những người cùng chung màu áo
treillis. Cho nên khi cuộc đảo chánh thành công, con số thiệt hại nhân
mạng thật ít ỏi, ngoại trừ một vài trường hợp rủi ro. Đến giờ phút này
Tổng Thống Diệm vẫn còn hy vọng vào lực lượng cứu nguy từ Quân Khu II
Cao Nguyên, ông đã liên lạc được với Trung Tướng Nguyễn Khánh kêu gọi
ông đem quân về giải vây. Tướng Khánh lừng khừng trả lời, rằng ông muốn
lắm nhưng đã trễ mà đường về thì xa diệu vợi. Thật tình thì Tướng
Khánh đánh hơi thấy gió đã đổi chiều, nên 4 giờ sáng ngày 2.11.1963 ông
đã đánh điện về Sài Gòn ủng hộ quân đảo chánh.
Vẫn không có báo cáo lạc quan nào từ phía Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy
Dù và Thiết Giáp, các tướng đảo chánh lệnh cho Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu,
Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh tiến lên làm nỗ lực chánh tấn công Dinh Gia
Long. Ngay từ đầu cuộc động binh, Đại Tá Thiệu thừa khôn ngoan, ông
chùng chình án binn bất động, không muốn tay vấy vào chàm, từ tận thâm
tâm ông còn nhớ rằng mình vẫn là một đảng viên Đảng Cần Lao của chính
quyền (Nền Đệ Nhứt Cộng Hòa có hai lực lượng chính trị chánh phụ thuộc
vào chính quyền là Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia và Đảng Cần Lao. Đảng
Cần Lao là sáng kiến tư duy của ông Ngô Đình Nhu, được xem như một cái
đối trọng của Đảng Lao Động của cộng sản Hà Nội). Nhận lệnh, Đại Tá
Thiệu điều động quân bộ binh “đánh” vào chiến lũy của Liên Binh Phòng
Vệ Phủ Tổng Thống. Vẫn chẳng ăn cái giải gì, vì đôi bên làm sao nỡ lòng
bắn nhau. Súng vẫn nổ rền trời suốt đêm.
0 giờ 10 phút. Bộ Chỉ Huy của quân đảo chánh đặt tại đường Phạm Ngũ
Lão, sau bến xe buýt Sài Gòn, quyết định tổ chức một cuộc hành quân
liên binh đại qui mô. Nhiều chiến xa và thiết vận xa từ mạn Chợ Lớn
theo đường Trần Hưng Đạo ầm ầm tiến ra Sài Gòn. Các đơn vị Thủy Quân
Lục Chiến được điều động dọc theo hai bên đường chạy theo chiến xa. Khi
đến Công Trường Diên Hồng, tất cả đều dừng lại để chiến xa và M 113
chuẩn bị đội hình tấn công.
4 giờ sáng. Chiến xa và các đơn vị bộ binh tiến về hướng Dinh Gia
Long theo những ngã Pasteur, Công Lý và Lê Thánh Tôn. Máy phóng thanh
của quân đảo chánh không ngớt kêu gọi Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ
Tổng Thống đầu hàng.
5 giờ sáng ngày 2.11.1963.. Buổi sáng sớm, sau khi đã cùng ông Nhu
sang Nhà Thờ Cha Tam cầu nguyện lần cuối cùng, Tổng Thống Diệm quyết
định bỏ cuộc. Ông cảm thấy cô đơn và mệt mỏi lắm rồi. Điều mà người còn
có thể làm được là gọi điện lệnh cho Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ
Tổng Thống buông súng để tránh thương vong cho các chiến sĩ trung thành
của ông. Tổng Thống Diệm gọi điện thoại cho Tướng Minh loan báo ý định
đầu hàng, với điều kiện cùng ông Nhu được ra ngoại quốc. Tướng Minh
chấp nhận ngay, không phải vì lòng từ tâm, mà là muốn bắt được Tổng
Thống Diệm càng sớm càng tốt, khỏi lo hậu họa về sau. Khi hai anh em
ông Diệm đã nằm trong tay Tướng Minh rồi thì... cuộc báo oán trả hận sẽ
dễ dàng biết bao nhiêu.
6 giờ 30 sáng. Tướng Minh chỉ định Tướng Mai Hữu Xuân, Đại Tá Dương
Ngọc Lắm, Đại Tá Nguyễn Văn Quang, Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa, Đại Úy
Nguyễn Văn Nhung lên 2 chiếc xe Jeep và một chiếc thiết vận xa M113 đi
đón anh em Tổng Thống Diệm. Sự có mặt của Xuân dường như là để giám
sát, bảo đảm công tác mật được hoàn thành. Tướng Đôn chuẩn bị một căn
phòng tươm tất để anh em Tổng Thống Diệm tạm ngơi nghỉ. Đến Nhà Thờ Cha
Tam, Đại Úy Nhung thô bạo chỉa súng vào Tổng Thống Diệm và ông Nhu
buộc lên xe thiết giáp. Ông Nhu phản đối, đòi Nhung phải lễ độ với vị
nguyên thủ, Nhung sừng sộ đấm ông Nhu một cái vào mặt, xô hai anh em
ông vào lòng xe, rồi dùng dây thô bạo trói quặt tay hai người ra phía
sau lưng.
Trong khoảng 8 giờ – 9 giờ sáng. Đoàn xe áp tải anh em Tổng Thống
Diệm chạy đến gần đường rầy xe lửa, khoảng đường Phan Thanh Giản – Ngã
Bảy Lê Văn Duyệt. Lợi dụng có một đoàn xe lửa đang ầm ầm chạy cắt
ngang, Nhung bất ngờ móc súng bắn lén Tổng Thống Diệm và ông Nhu từ
phía sau, súng kê vào màng tang phải Tổng Thống Diệm và sau ót ông Nhu.
Hai cái xác oan khuất ngã nằm dài sóng soãi trên nền chiếc xe thiết
giáp, một giòng máu đỏ tuôn ướt đẫm đầy mặt Tổng Thống Diệm. Vẫn chưa
thỏa mãn cơn cuồng sát, Nhung rút lưỡi lê đâm thêm trên lưng ông Nhu
nhiều nhát nữa. Khi đoàn xe chạy vào Bộ Tổng Tham Mưu, nơi đặt bản
doanh của bộ chỉ huy đảo chánh, Đại Úy Nhung bước ra đứng nghiêm chào
Tướng Minh đang nôn nóng đứng chờ :”Mission accomplie” (sứ mạng hoàn
thành). Những nhân vật liên can đến cuộc áp tải và hạ sát Tổng Thống
Diệm và ông Nhu đều được thăng một cấp. Tuy rằng với công trạng giết
chúa ấy, Đại Úy Nhung được vinh thăng Thiếu Tá, nhưng chưa đủ thời gian
để tiêu hóa cuộc vinh quang, thì Nhung đã bị chính quyền Quốc Trưởng
Nguyễn Khánh bắt nhốt vào quân lao trong Bộ Tổng Tham Mưu, sau tháng
1.1964, khi ông Khánh đã làm “cách mạng” lật đổ ông Minh rồi cho ông ta
đi Thái Lan. Tự biết tội nghiệt đã nhiều và hãi sợ lưỡi gươm công lý,
Nhung cởi giây giày tự thắt cổ chết.
10 giờ 45 phút. Trung Tướng Minh ra lệnh cho Đài Phát Thanh đọc một
bản tin ngắn, loan báo anh em Tổng Thống Diệm đã tự tử. Chỉ một khoảnh
khắc ngắn sau, Tổng Thống Hoa Kỳ Kennedy ở Hoa Thịnh Đốn đã nhận được
tin cái chết thảm thương của Tổng Thống Diệm. Mặt trắng bệch như một
cái xác chết, Kennedy lặng lẽ đi vào văn phòng riêng đóng cửa, tự ngăn
cách với thế giới bên ngoài. Phó Tổng Thống Lyndon Johnson, một người
có rất nhiều cảm tình với nền Đệ Nhất Cộng Hòa và Tổng Thống Diệm, sau
này đã kêu lên khi hồi tưởng lại giây phút ghê tởm đó : “Chúng ta đã
nhúng tay vào vụ giết ông Diệm ”. Có phải chăng hung bạo và tàn nhẫn
với bạn đồng minh, hèn nhát khiếp nhược trước “kẻ thù” là bản chất của
những người làm chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Câu trả lời này ngày
nay đã được giải đáp thật rõ ràng, chúng ta không cần phải dẫn giải
thêm nữa.
Để điều hành guồng máy quốc gia trong thời gian chuyển tiếp, thành
phần Ủy Ban Chấp Hành Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng được công bố như sau
và được Tướng Minh ký hiệu lực ngày 5.11.1963 :
Chủ Tịch : Trung Tướng Dương Văn Minh.
Đệ Nhứt Phó Chủ Tịch : Trung Tướng Trần Văn Đôn.
Đệ Nhị Phó Chủ Tịch : Trung Tướng Tôn Thất Đính.
Ủy Viên Kinh Tế : Trung Tướng Trần Văn Minh.
Ủy Viên An Ninh : Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu.
Ủy Viên Quân Sự : Trung Tướng Trần Thiện Khiêm.
Ủy Viên Chánh Trị : Thiếu Tướng Đỗ Mậu.
Tổng Thư Ký kiêm Ủy Viên Ngoại Giao : Trung Tướng Lê Văn Kim.
Ủy viên : Trung Tướng Mai Hữu Xuân.
Ủy viên : Trung Tướng Lê Văn Nghiêm.
Ủy viên : Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thiệu.
Ủy viên : Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có.
Song song với Ủy Ban Chấp Hành Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, Phó
Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ được chỉ định giữ chức Thủ Tướng của thành
phần Chánh Phủ Lâm Thời kiêm Tổng Trường Kinh Tế và Tổng Trưởng Tài
Chánh, hiệu lực từ ngày 4.11.1963.
Nói một cách thật công bằng, thì ông Nolting đại sứ tiền nhiệm,
đương kim ngoại trưởng Dean Rusk, các thượng nghị sĩ Hubert Humphrey,
Mansfield, Fulbright, Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara, nhiều yếu nhân
trong các ngành lập pháp, hành pháp, tư pháp, tôn giáo và quân đội Hoa
Kỳ dành rất nhiều thiện cảm đến cá nhân Tổng Thống Diệm, cùng những
thành tích quân sự, kinh tế chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã kiến tạo
được. Dù là một nước đang trong tình trạng chiến tranh, mà VNCH vẫn
vươn lên được hàng cường quốc trong vùng Đông Nam Á. Nhưng những thành
quả đó, những ý chí chống cộng của Tổng Thống Diệm và quân dân VNCH
không nằm song hành với cái gọi là “quyền lợi của người Mỹ”. Tổng Thống
Ngô Đình Diệm muốn thiết lập một đất nước dân chủ, độc lập và cộng
hòa, theo đuổi lý tưởng tự do, bảo vệ chủ quyền dân tộc, kiến tạo một
quốc gia thịnh vượng sánh vai với các cường quốc năm châu. Người Mỹ
không đủ kiên nhẫn để nghĩ quá xa và quá nhiêu khê như thế, họ chỉ muốn
ngăn chận ảnh hưởng cộng sản từ Hoa Lục tràn xuống khu vực Đông Nam Á
và Nam Thái Bình Dương, củng cố vị thế của Mỹ ở Á châu, lấy VNCH làm
bức tường thành mà được chất chồng bằng xương và máu của người Miền
Nam.
Tổng Thống Diệm tỏ rõ chủ quyền quốc gia khi ông rất cứng rắn khước
từ yêu cầu của Kennedy cho đổ quân Mỹ vào Việt Nam. Tổng Thống Diệm cho
rằng người quốc gia đủ sức đương đầu và chiến thắng Hà Nội nếu nhận
được viện trợ vũ khí và tài chánh đầy đủ từ Hoa Kỳ. Tổng Thống Diệm chỉ
cho phép sự hiện diện của Quân Đội Mỹ, nếu chính quyền Hoa Kỳ chính
thức ký một hiệp ước an ninh hỗ tương với Việt Nam Cộng Hòa, điều mà
người Mỹ đã làm với Nam Hàn và Đài Loan. Nếu không, sự hiện diện bất
hợp pháp của quân Mỹ ở Miền Nam hóa ra là một cuộc xâm lăng và phi
nghĩa, là cái cớ để cộng sản cao rao sứ mạng “chốmg Mỹ xâm lược”. Tiên
kiến của Tổng Thống Diệm đã được chứng minh chỉ hai năm sau, năm 1965,
quân Mỹ đổ bộ lên bãi biển Đà Nẵng. Khi đã đạt được những thỏa thuận
với Hoa Lục Trung Cộng rồi, chính quyền Mỹ trở mặt ngay với đồng minh
và nhổ ngay nước bọt lên bia mộ của 58 ngàn tử sĩ cùng 300 ngàn thương
binh Quân Lực Hoa Kỳ hy sinh hay thương tật tại Việt Nam.
Để bào chữa cho tội ác của mình, người Mỹ đã thực hiện một cuộc
tuyên truyền rộng lớn mà ảnh hưởng sâu đậm của nó vẫn còn kéo dài đến
tận ngày nay, với sự tham dự hùng hậu của nhiều giới trí thức, học giả,
sử gia, truyền thông, báo chí cùng viết sách, viết báo, làm phim tài
liệu giả tạo đổ vấy tất cả mọi tội lỗi không có thật lên chính quyền Đệ
Nhứt VNCH , cá nhân Tổng Thống Diệm và anh em ông. Đến nay đã có hàng
chục ngàn cuốn sách vu khống, bôi nhọ cả hai nền Đệ Nhứt và Đệ Nhị Cộng
Hòa. Chỉ nói về nền Đệ I Cộng Hòa thôi, thì xin những thành phần nói
trên trả lời với công luận thế giới tại sao Tổng Thống Kennedy có thể
bổ nhiệm ông Robert Kennedy làm Bộ Trưởng Tư Pháp, mà Tổng Thống Diệm
lại không thể bổ nhiệm ông Ngô Đình Nhu làm Cố Vấn Chính Trị.
Bốn mươi ba năm hồi tưởng lại một giai đoạn đen tối của lịch sử với
cái chết bi thảm của Tổng Thống Diệm, để nhận ra rằng một con người mà
đã dâng hiến trọn cuộc đời cho dân tộc và đất nước ấy, dù có bao nhiêu
cuốn sách hay bài viết vu khống, bôi nhọ, nhưng hình ảnh một lãnh tụ
kiệt xuất nhất của Việt Nam trong nửa sau thế kỷ 20 là Tổng Thống Diệm
vẫn luôn là ánh sao chói chang trong lòng người hậu thế và trong lịch
sử. Dĩ nhiên Tổng Thống Diệm đâu phải là một ông thánh, để không có
những lỗi lầm đáng tiếc, nhưng ông chưa bao giờ có những hành động làm
dân tộc ông hỗ thẹn. Trái lại, Tổng Thống Diệm đã để lại trong lòng thế
hệ sau tấm gương bất khuất của một sĩ phu : Uy Vũ Bất Năng Khuất. Dân
tộc Việt Nam luôn ngẫng cao đầu hãnh diện có một vị lãnh đạo không bao
giờ chịu cúi đầu khuất phục trước ngoại bang, dù đó là người Pháp,
người Tàu hay người Mỹ. Chúng ta và các thế hệ Việt Nam sau nên ghi
khắc trong tim niềm kiêu hãnh này : Trong sử sách Đông, Tây và của cả
cộng sản, chưa từng có sử gia nào dám gọi Tổng Thống Ngô Đình Diệm là
bù nhìn của Pháp hay Mỹ. Sĩ khí của một nhà nho dân tộc trong con người
ông trước những cơn phong ba bão tố như là một cây thông vươn cao ngạo
nghễ. Thông chỉ có thể bị trốc gốc, chứ không thể bị bẽ gãy. Tổng
Thống Diệm tin tưởng Thiên Mệnh đã chọn ông, đã trao cho ông trọng
trách lèo lái con thuyền quốc gia. Người muốn thiết lập một chính thể
và một chính quyền theo mô thức Vương Đạo mà người đã được thấm nhuần
trong kinh sử Nho giáo từ thời niên thiếu. Chỉ tiếc rằng người là một
nhà nho cô đơn ở giữa một thời thế nhiễu nhương, cả bạn lẫn thù đều
kính sợ nhưng căm ghét ông, vì họ không thể so sánh được với ông. Một
nhà biên khảo Hoa Kỳ đã kính trọng gọi Tổng Thống Diệm là The Last
Confucian : Kẽ Sĩ Cuối Cùng trong thời đại của chúng ta.
Để trả lời những người đã viết sách, viết báo bôi nhọ Tổng Thống Ngô
Đình Diệm, hãy cứ nhìn hàng đoàn người Việt về nước mỗi năm vào dịp
1.11, đã đến hai nấm mộ nhỏ khiêm tốn, một tấm bia mang cái tên Huynh,
tức Tổng Thống Diệm, và Đệ, tức ông Ngô Đình Nhu, lũ lượt vào lễ bái
khói hương, trước những cặp mắt khó chịu và sự bất lực của chính quyền
cộng sản ở Hốc Môn. Đó là câu trả lời rõ ràng nhất, rằng sự thật đã
đứng về phía nào. Hàng năm, ở hải ngoại, vào ngày 2.11, nhiều đoàn thể
bao gồm mọi thành phần, khuynh hướng chính trị hay tôn giáo, vẫn đều
đặn trang trọng tổ chức những buổi lễ Chiêu Hồn và Truy Điệu Tổng Thống
Diệm, để tri ân những gì người đã tận tụy hiến dâng cho đất nước và
dân tộc của người.
Thời gian đã trả xong mối thù cho Tổng Thống Diệm, một mối hận không
phải được vun tưới bằng bạo lực hay bằng máu, mà chỉ đơn thuần được
bón bằng sự thật. Sự thật cao hơn tất cả mọi sự hận thù. Giờ đây, chắc
ngài, Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà từ lâu trên Cõi Vĩnh Cửu luôn thanh
thản nhìn xuống trần gian với tấm lòng bao dung thường hằng, đã tha thứ
cho hết thảy con người cùng góp tay đưa đến cái chết của ngài, hay bôi
nhọ ngài, vì họ không biết việc họ làm. Chỉ xin ngài hiển hiện ban cho
người Việt Nam một phép mầu nhiệm, bởi ngài vẫn chưa hoàn thành công
việc mà ngài tâm nguyện lúc còn sống. Là xin hãy đem ánh sáng, bình an,
công bằng, tự do và no ấm đến cho 84 triệu người đồng bào đau khổ của
ngài vẫn còn oằn oại trong địa ngục cộng sản.
Phạm Phong Dinh
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét