.
PGS.TS Trần Văn Tùng (Viện Nhiên cứu Châu Phi và Trung Đông)
Thể chế kinh tế mà Liên Xô áp dụng hơn 60 năm trước khi sụp đổ là một
thể chế kinh tế không tôn trọng quy luật thị trường tự do. Do đó, không
thể chuyển đổi được từ mô hình tăng trưởng theo chiều rộng sang tăng
trưởng theo chiều sâu, hâu quả là tốc độ tăng trưởng liên tục giảm sút.
Nhiều người lầm tưởng Gorbachov đã có nhiều sai lầm góp phần làm cho
Liên Xô sụp đổ nhanh chóng hơn, riêng tôi không đồng tình với quan điểm
đó. Có may mắn được sống và nghiên cứu tại trường Đại học Quốc gia
Maxcơva mang tên Lomonoxov vào những năm biến động lớn (từ 1990 đến
1992), tôi nhận thấy có ba nguyên nhân lý giải cho sự thất bại này.
Thứ nhất, chính sách phát triển kinh tế của Liên Xô dựa vào lý thuyết
cứng, đó là học thuyết xã hội chủ nghĩa chính thống dựa trên cơ sở mô
hình phân công lao động của các nước phương Tây trước chiến tranh. Lý
thuyết kế hoạch hoá xã hội chủ nghĩa với việc ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng thực chất giúp cho các ngành này giữ vị trí chủ chốt trong
kỷ nguyên phát triển điện và thép đầu thế kỷ 20. Nhưng, Liên Xô sai lầm
khi coi mô hình công nghiệp nặng tập trung là mô hình chuyên môn hoá bất
biến của nền kinh tế. Theo quan điểm của Liên Xô, nền kinh tế trong
tương lai có thể tiếp tục phát triển với các ngành công nghiệp nặng làm
trọng tâm và chỉ cần có điều chỉnh nhỏ về mô hình phát triển kinh tế. Có
thể là các quan niệm của các nhà hoạch định chính sách phát triển của
Liên Xô lúc đó không ăn nhịp với mức độ thay đổi trình độ chuyên môn hoá
các ngành một cách nhanh chóng, diễn ra ở các nền kinh tế phương Tây.
Học thuyết xã hội chủ nghĩa chính thống đã định hướng nền kinh tế
Liên Xô đạt được thành công bước đầu trong quá trình công nghiệp hoá.
Bởi vì học thuyết này đã nhận thức đúng vai trò mô hình chuyên môn hoá
trong làn sóng công nghệ thứ ba trước chiến tranh. Nhưng học thuyết xã
hội chủ nghĩa cứng đã làm cho các nhà lập kế hoạch Liên Xô không thấy
trước được những thay đổi về cơ cấu sắp diễn ra với sự xuất hiện của làn
sóng mới, mà người ta gọi là làn sóng công nghệ thứ tư. Liên Xô vẫn
tiếp tục mở rộng quy mô của mô hình chuyên môn hoá các ngành công nghiệp
nặng, chứ không chịu tái cơ cấu lại các ngành. Được học thuyết này ủng
hộ, Chính phủ vẫn tiếp tục đầu tư lớn cho công nghiệp điện năng, sản
xuất thép và các ngành truyền thống khác. Chính những ngành công nghiệp
này góp phần thúc đẩy tăng trưởng của Liên Xô trong nhập niên 1960, 1970
nhưng đồng thời nó cũng là những ngành gieo mầm dẫn đến kinh tế Liên Xô
sụp đổ. Liên Xô đã không học tập các nước phương Tây là phát triển
những ngành công nghiệp mới như hoá chất, ôtô, polyme, máy tính… Theo
Amann và Cooper (1977), đó là nguyên nhân thất bại của kinh tế Xô Viết.
Thứ hai, thất bại trong việc sử dụng các thông tin kinh tế còn do hai
nhân tố quan trọng khác, đó là đất nước bị cô lập hoàn toàn khỏi nền
kinh tế thị trường và thu hẹp được khoảng cách phát triển với các nước
phương Tây về các ngành công nghiệp truyền thống. Với mục tiêu chính trị
là xây dựng một nền kinh tế tự cung, tự cấp, Liên Xô đã cố gắng cạnh
tranh với các mẫu hình công nghiệp tiên tiến thông qua chương trình kế
hoạch hoá tập trung độc lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Trao đổi
ngoại thương với các nền kinh tế phương Tây rất ít, chỉ có một mặt hàng
được trao đổi, thí dụ dầu mỏ, khí đốt, vũ khí và các sản phẩm từ dầu.
Chủ yếu Liên Xô trao đổi ngoại thương với các nước thành viên của Hội
đồng tương trợ kinh tế. Việc tách khỏi thị trường toàn cầu đã làm giảm
đáng kể khả năng của các nhà hoạch định chính sách Liên Xô trong việc
bắt kịp với những kinh nghiệm mới nhất của nền kinh tế thị trường. Ngoài
ra việc xoá bỏ khoảng cách phát triển trong các ngành công nghiệp
truyền thống hàng đầu giữa Liên Xô và các nước công nghiệp phương Tây đã
làm giảm đáng kể lợi ích về thông tin của Liên Xô do phát triển chậm
hơn. Liên bang Xô Viết đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao sau chiến
tranh thế giới thứ II là do mức độ phát triển lúc đó kém hơn các nước
phương Tây. Khoảng cách lúc đó đủ lớn để cho các nhà hoạch định chính
sách Liên Xô có thể xác định một cách rõ ràng những ngành công nghiệp
chủ lực trong tương lai. Tuy nhiên, sau khi hoàn hành xong công nghiệp
hoá, với những ngành công nghiệp chủ lực như sắt, thép, điện lực, than
đá, máy móc công cụ thì mục tiêu phát triển của Liên Xô lại không rõ
ràng. Nói cách khác là khi khoảng cách phát triển giữa Liên Xô và các
nước phương Tây bị thu hẹp lại, thì các nhà hoạch định chính sách của
Liên Xô lại khó xác định ngành nghề để đầu tư phát triển, mặc dù làn
sóng công nghệ thứ tư mới hình thành.
Sự chậm trễ trong việc chuyển đổi mô hình phát triển là do cơ chế kế
hoạch hoá tập trung gây ra. Các nhà kinh tế thường tránh tình trạng mất
ổn định kinh tế, họ thường xác định lại mục tiên ưu tiên trong các kế
hoạch đầu tư tổng thể, nhằm hạn chế những thiệt hại do các quyết định từ
Trung ương, quyết định đó có thể sai lầm. Nói cách khác, cơ quan quyền
lực trung ương không thể đáp ứng việc thử nghiệm các ngành công nghiệp
tiềm năng mới, khi mà những chi phí cơ hội rất cao cho việc này lại liên
quan tới việc sắp xếp lại ưu tiên đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế. Các
nhà hoạch định chính sách chỉ ưu tiên cao cho các công nghiệp mới hoặc
các ngành nghề khác khi lợi ích và vai trò quan trọng của ngành này được
thể hiện rõ ràng ở các nền kinh tế phương Tây. Điều này cũng giúp cho
việc giải thích thêm việc trì hoãn áp dụng các ngành công nghiệp mới tại
Liên Xô. Sự trì hoãn các ngành công nghiệp như polyme, hoá dầu ở Liên
Xô là một thí dụ cực đoan. Các công ty phương Tây đã dùng các vật liệu
tổng hợp để thay thế thép trong các cấu kiện rất phổ biến và thành công,
khi đó Liên Xô mới nhận rõ vai trò của công nghiệp hoá chất đối với nền
kinh tế. Khrushchov là người phát động một chiến dịch đầu tư vào ngành
công nghiệp hoá chất. Mặc dầu vậy, sản lượng và công nghệ vẫn kém xa so
với các nước phương Tây. Điều tương tự đã xảy ra với ngành công nghiệp
máy tính, khi mà tiềm năng của ngành công nghiệp này đã được chứng minh
là rất to lớn vào thập niên 1970, thì Liên Xô vẫn đầu tư dè dặt cho công
nghiệp này. Liên Xô vẫn tiếp tục sử dụng các máy tính lạc hậu, cồng
kềnh và tốc độ tính toán chậm chạp so với các máy tính gọn nhẹ, nhiều
tính năng của các nước phương Tây.
Mặc dầu đã thúc đẩy một vài ngành công nghiệp mới phát triển nhưng
Liên Xô không thể làm tăng sản lượng của nền kinh tế vì thiếu sự hỗ trợ
của các ngành, không có sự mở rộng chuyên môn hoá của nền kinh tế. Điều
này đòi hỏi phải có sự chuyển đổi mạnh mẽ hoặc thay đổi cơ cấu kinh tế,
tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp mới ra đời. Trong quá khứ Liên
Xô không có cơ hội để thực hiện điều đó. Bởi vì cơ chế kế hoạch hoá tập
trung không những không thấy trước nhu cầu cần phải thay đổi cơ cấu mà
còn không linh hoạt thích ứng với những thay đổi cơ cấu như vậy. Một khi
đã áp dụng cơ cấu kinh tế do công nghiệp nặng đóng vai trò then chốt
thì không thể có cách nào phá bỏ nó dựa vào các quyết định từ các cơ
quan Trung ương. Tính cứng nhắc, cực đoan của cơ chế kinh tế phi thị
trường và sự phụ thuộc hoàn toàn vào tính toán của chính phủ thực sự đã
trói buộc nền kinh tế Liên Xô vào các trào lưu công nghệ lần thứ ba, thứ
tư.
Thứ ba, kinh tế Liên Xô sụp đổ không phải vì cơ chế kế hoạch hoá của
nước này không có khả năng huy động vốn dùng cho tăng trưởng trong những
năm cuối trước khi sụp đổ. Theo các số liệu thống kê thì vốn huy động
tăng trưởng cao trong thời kỳ 1960-1981, với tốc độ tăng hàng năm là 7,
6%, cao hơn nhiều so với Hoa Kỳ là 3, 6% và Anh là 3, 4% trong cùng thời
kỳ. Tiếp theo, thời kỳ 1983-1987, tỷ lệ tăng hàng năm vốn đầu tư của
Liên Xô vẫn là 5, 8% một năm. Kinh tế Liên Xô sụp đổ là do kế hoạch kinh
tế đã định hướng sai cho việc sử dụng dòng vốn khi mà các cơ quan trung
ương tiếp nhận các thông tin kinh tế không chính xác. Việc tăng vốn đầu
tư vào các ngành công nghiệp truyền thống đã làm giảm dần hiệu suất
vốn. Khi Liên Xô bước vào giai đoạn phát triển cao hơn, nhiều ngành công
nghiệp cùng phát triển, nhưng lực lượng lao động lại giảm sút trong khi
vốn đầu tư tiếp tục tăng. Hậu quả tất yếu sẽ xảy ra là tỷ suất lợi
nhuận trên vốn giảm, kéo theo giảm sản lượng. Các số liệu thống kê cho
thấy, hiệu suất vốn của Liên Xô đã giảm 3, 5% một năm trong thời kỳ
1960-1981 và 3, 8% một năm trong thời kỳ 1983-1987, đây là tốc độ giảm
nhanh nhất so với các nước phát triển khác cùng thời kỳ.
Hệ thống kinh tế kế hoạch hoá tập trung là bị động, nó chỉ hoạt động
hiệu quả khi mà người điều hành thể chế kinh tế này có được những thông
tin định hướng chính xác. Khi cơ quan quyền lực Trung ương không đưa ra
được các quyết định đúng đắn thì cơ chế đó mất khả năng phân bổ các
nguồn lực hiệu quả. Cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung vẫn có thể huy
động vốn và phân bổ các yếu tố đầu vào với chi phí giao dịch thấp, song
định hướng sai lầm từ các cơ quan Trung ương, dẫn đến kinh tế vĩ mô ở
trạng thái không hiệu quả và tăng trưởng giảm sút khi các yếu tố đầu vào
cạn kiệt. Hệ thống kinh tế Liên Xô được xây dựng dựa vào năng lực chính
phủ, hệ thống này không tự tạo ra cơ chế tiếp nhận thông tin, bởi vì
không sử dụng thị trường và loại bỏ sở hữu tư nhân. Liên Xô đã tạo được
một hệ thống giáo dục rất tốt, có những nhà nghiên cứu, nhà khoa học
hàng đầu thế giới. Nhưng ngay cả trong thời kỳ huy hoàng nhất, khi Liên
Xô đuổi kịp các nền kinh tế phát triển hàng đầu trong nhiều ngành công
nghiệp truyền thống, thì nước này cũng không thành công trong việc phá
bỏ lối mòn cũ, cũng như có những phát minh, sáng tạo ra các sản phẩm mới
và ngành mới là nền tảng phát triển các mô hình chuyên môn hoá sản xuất
mới.
Cũng giống như việc phân bổ vốn và lao động, hoạt động nghiên cứu và
phát triển (R&D) của Liên Xô được xác định theo ưu tiên trong kế
hoạch tổng thể và do đó, hầu hết chỉ tập trung ở các ngành công nghiệp
truyền thống được ưu tiên. Kết quả là các đột phá về công nghệ chỉ tập
trung chủ yếu ở những ngành dân dụng truyền thống, ngành quốc phòng, vũ
trụ những ngành đã được định hướng theo mục tiêu chính trị rõ ràng.
Trong các ngành này Liên Xô không những xoá bỏ khoảng cách công nghệ so
với các nước phương Tây mà còn đứng hàng đầu trong một số lĩnh vực công
nghệ, thí dụ vũ trụ và vũ khí mới. Cho nên, các phát minh công nghệ của
Liên Xô là những phát minh tiệm tiến theo định nghĩa của học thuyết tiến
hoá. Những phát minh này nhằm đáp ứng, thích nghi và cải tiến công nghệ
sản xuất mới do các sáng chế cấp tiến đưa ra. Nhiều nhà nghiên cứu về
Liên Xô cũng đã bình luận về sự bất lực của quốc gia này khi tạo ra các
phát minh cấp tiến trước khi nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng chậm
lại. Theo Sutton (1973), Liên Xô không hề có phát minh công nghiệp cơ
bản nào trong thời kỳ 1917-1965, thực chất các phát minh của Liên Xô, là
sự điều chỉnh lại các phát minh của bên ngoài hoặc sử dụng những phát
minh của các công ty phương Tây riêng cho Liên Xô, hoặc điều chỉnh cho
phù hợp hoàn cảnh của Liên Xô.
Kinh tế Liên Xô không thể đi lên trước bởi vì nó không thể tạo ra các
thông tin định hướng cho mô hình chuyên môn hoá mở rộng trong khi lại
xoá bỏ sự tồn tại của thị trường. Chính việc làm đó đã hạn chế các dòng
thông tin mà có thể dẫn tới xuất hiện các công nghệ mới và sản phẩm tiềm
năng mới và chúng đồng nghĩa với sự phát triển của kinh doanh. Không có
cơ chế giá thị trường để chuyển tải các thông tin về giá, sức sống của
sản phẩm mới, tiềm năng của chúng, các nhà hoạch định chính sách Trung
ương của Liên Xô không thể phát hiện, đánh giá hoặc thúc đẩy quá trình
phát triển các ngành công nghiệp tiềm năng cho tương lai. Sự xoá bỏ
quyền sở hữu tư nhân dẫn đến hạn chế quyền lựa chọn độc lập trong kinh
doanh và tính sáng tạo của các cá nhân, vốn là nền tảng của sự tiến bộ
công nghệ mở đường cho tăng trưởng dài hạn, làm cho kinh tế Liên Xô khó
có bước tiến về phía trước.
Một đặc điểm quan trọng khác của cơ chế kinh tế Liên Xô thể hiện ở
chỗ các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng bất lực trước yêu cầu,
thị hiếu của người tiêu dùng. Theo kế hoạch chỉ đạo từ trên xuống dưới,
thì nền kinh tế của Liên Xô đơn thuần chỉ là nền kinh tế của người sản
xuất. Bất cứ thời gian nào thì khu vực tiêu dùng luôn yếu thế hơn khu
vực sản xuất, do đó mới xảy ra chuyện thiếu hụt, khan hiếm hàng hoá và
chất lượng hàng hoá thấp. Các ngành công nghiệp tiêu dùng được gọi là
công nghiệp nhẹ không được ưu tiên phát triển. Đáng lẽ ra khu vực tiêu
dùng điều khiển và định hướng cho khu vực sản xuất, thì nền kinh tế Xô
Viết lại tăng quyền cho khu vực sản xuất, giả sử nếu như thị trường có
nhiều hàng tiêu dùng thì chắc người dân Liên Xô đã có thể được hưởng
quyền tiêu dùng. Việc hạn chế quyền tiêu dùng không chỉ làm giảm lợi ích
của người tiêu dùng mà còn làm cho nền kinh tế mất đi một cơ chế, giúp
phát triển những nhu cầu tiềm năng đối với các sản phẩm nguyên gốc, nhu
cầu cần cải tiến các sản phẩm và mở rộng sang lĩnh vực chuyên môn hoá
sản xuất. Bởi vì, người tiêu dùng chính là thông tin định hướng cho việc
sẽ sản xuất cái gì trong tương lai. Chính nhu cầu tăng không ngừng về
hàng hoá và dịch vụ tốt hơn, nhiều hơn sẽ tạo ra ý tưởng mới, định hướng
mới về phát triển sản xuất cho các doanh nghiệp. Những nghiên cứu tích
cực về nhu cầu sản phẩm mới của doanh nghiệp chính là con đường dẫn tới
những phát minh quan trọng về công nghệ. Một lần nữa cần khẳng định tăng
trưởng dài hạn không phải do đầu tư quyết định.
Thật sự, nếu không có thị trường tự do, với vai trò khám phá, thử
nghiệm và xây dựng các mô hình chuyên môn hoá hiệu quả của phương Tây mà
Liên Xô là nước đi sau đã áp dụng thì Liên Xô không thể có được các
thành quả to lớn trước đây. Thể chế kinh tế Liên Xô khác xa với thể chế
kinh tế của Hoa Kỳ. Hệ thống này đã đi quá xa, dùng nhà nước là biện
pháp điều phối để đuổi kịp các nước công nghiệp phát triển bằng sở hữu
nhà nước, xoá bỏ thị trường, sử dụng các quyết định hành chính mệnh
lệnh, cuối cùng đã đi đến thất bại. Sau năm 1990, Nga đã thực hiện quá
trình tư nhân hoá vội vàng nhằm thay đổi thể chế kinh tế trước đây vốn
được cho là nguyên nhân cơ bản gây nên thất bại. Tuy nhiên, quá trình tư
nhân đó không tạo ra nền kinh tế thị trường hiệu quả, thêm vào đó làm
gia tăng tình trạng bất bình đẳng xã hội với tỷ lệ tăng trưởng thấp, lợi
ích quốc gia chuyển vào tay các nhóm quyền lực. Thay vì đưa lại các yếu
tố kích thích sản xuất, tạo ra của cải hàng hoá tiêu dùng thì nó lại
tạo ra động cơ chiếm đoạt tài sản, gây nên làm sóng chuyển vốn tư nhân
ào ạt ra nước ngoài. Chính phủ của tổng thống Eltsin phải đối mặt với
tình trạng nợ lương công nhân, chính trị xã hội không ổn định, lạm phát
ba chữ số, nhiều tổ chức tội phạm cùng xuất hiện, hoạt động khắp nơi ở
Nga và các nước cộng hoà thuộc Liên Xô trước đây. Từ môt nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung chuyển sang chế độ dân chủ, kinh tế thị trường có lẽ
là một quá trình dài mà mọi tầng lớp nhân dân và Chính phủ phải được
tập dượt để hiểu thế nào là một thể chế dân chủ và một nền kinh tế thị
trường tự do. Tôi cho rằng, nước Nga chưa có quá trình chuẩn bị.
Cho đến ngày nay, nền chính trị Nga vẫn chưa phải là nền chính trị
dân chủ, bởi vì chính quyền cố bảo đảm mục tiêu ổn định chính trị để
phát triển. Mặc dầu thể chế kinh tế, chính trị của Liên bang Nga khác
với thể chế kinh tế, chính trị của Hoa Kỳ, nhưng nước Nga vẫn có thể
tiến tới hội tụ về thu nhập mà không cần có sự hội tụ về thể chế kinh
tế, nếu Nga vẫn có đủ các thông tin kinh tế chính xác từ các nước phương
Tây. Đó là cách lý giải về sự hội tụ thu nhập của nước đi sau đến cùng
mức thu nhập của nước đi trước mà các lý thuyết tăng trưởng đã chứng
minh qua các nghiên cứu thực nghiệm của Barro và Xavier (1995).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét