Vào ngày
kỷ niệm trận Trân Châu Cảng, các nhà lịch sử vẫn còn tiếp tục tranh luận
về những bí ẩn của nó. Cuộc tấn công của quân Nhật đã tạo ra một số câu
hỏi chưa có lời giải đáp lớn nhất trong lịch sử quân sự.
Hai
chiến hạm USS West Virginia và USS Tennessee bốc cháy ngùn ngụt. Cảnh
tượng được một phi công ném bom Nhật sau đó kể lại là “một cảnh tượng
thật hùng vĩ”.
Ở Mỹ,
riêng cái tên Trân Châu Cảng cũng có nghĩa sự bất ngờ, sự thất bại và sự
gượng dậy từ đống tro tàn. 70 năm trôi qua, cuộc tấn công bất ngờ của
quân Nhật nhằm vào lực lượng Mỹ đóng ở Hawaii vẫn là một trong những ký
ức lịch sử mạnh mẽ nhất của công chúng Mỹ.
Năm nào
cũng vậy, vào ngày 7/12, nước Mỹ lại dừng lại để tưởng nhớ 2.400 quân
nhân đã thiệt mạng trong ngày đó và tưởng nhớ thế hệ người dân đã nhặt
lá cờ bị đánh đổ ở Trân Châu Cảng để tham gia giành chiến thắng trong
Thế Chiến II.
“Chúng
ta nhìn về ngày 7/12/1941, để thấy sức mạnh mà những người con yêu nước
này đã tạo ra và tưởng nhớ tất cả những người đã hi sinh vì sự tự do của
chúng ta”, Tổng thống Mỹ Obama phát biểu trong Ngày tưởng nhớ Trân Châu
Cảng 2011.
Nhưng 70
năm sau, Trân Châu Cảng vẫn là một bí ẩn. Cụ thể hơn, nó vẫn là một sự
kiện với một số câu hỏi chưa có lời giải đáp lớn nhất lịch sử quân đội.
Đó là vì
sao quân Nhật lại tấn công một nước mà sức mạnh công nghiệp của nước
này lớn hơn? Tại sao Mỹ không thấy dấu hiệu về một cuộc tấn công đang
đến? Ai trong số hàng loạt chỉ huy của Mỹ chịu trách nhiệm cao nhất cho
“tội” không sẵn sàng chiến đấu của Mỹ?
Ngày nay các nhà lịch sử vẫn tiếp tục tranh luận về nhiều bí ẩn của Trân Châu Cảng, đưa ra những bằng chứng và giả thuyết mới. Dưới đây chỉ là một vài trong số chúng.
Vì sao các căn cứ của Mỹ không được cảnh báo?
Đợt tấn
công đầu tiên của máy bay Nhật nhằm vào Trân Châu Cảng vào 8h sáng giờ
địa phương ngày 7/12/1941. Trong vòng vài giờ, quân Nhật cũng đánh
Philippines, Wake Island, Guam cùng các mục tiêu khác ở Thái Bình Dương.
Các căn cứ của Mỹ ở nơi nào cũng bị bất ngờ.
“Sự trơ
trụi của các căn cứ của Mỹ ở Thái Bình Dương vẫn tiếp tục khiến thế hệ
sau này không hiểu”, nhà báo, nhà lịch sử người AnhMax Hastings viết
trong cuốn sách mới về Thế chiến II “Inferno” của ông.
Hastings
phủ nhận thông tin cho rằng Tổng thống Franklin Roosevelt cho phép Trân
Châu Cảng bị tấn công để Mỹ có “cớ” tham gia vào Thế chiến II. Nhưng
ông cho biết dù sao cũng “rất bất thường” khi các lãnh đạo chính trị và
quân sự Mỹ không đảm bảo được Trân Châu Cảng và các căn cứ ở Thái Bình
Dương luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Cố giáo
sư Gordon Prange của trường đại học Maryland khi còn sống cho rằng vấn
đề cốt lõi là chính phủ Mỹ tự trong thâm tâm không tin những cảnh báo
của chính họ về sự hiếu chiến của Nhật là sự thật.
“Hoài
nghi căn bản này là gốc rễ của toàn bộ thảm kịch”, ông Prange kết luận
trong cuốn sách “At Dawn We Slept” (Tạm dịch Bình Minh mà chúng ta ngủ).
Một ủy
ban của quốc hội Mỹ đã tiến hành điều trần sâu rộng về thảm họa Trân
Châu Cảng sau khi chiến tranh kết thúc. Trong số những kết luận được đưa
ra có kết luận lực lượng Mỹ đã tập trung quá nhiều vào huấn luyện đến
nỗi họ bị “mù” trước một cuộc tấn công có thể xảy ra và các chỉ huy quân
đội Mỹ đã quá lo lắng về sự phá hoại đến nỗi họ “khóa” hết các kho đạn
dược chống máy bay, thay vì phân phát nó cho các điểm bắn. Hải quân
không duy trì các cuộc tuần tra bằng máy bay trên biển do thiếu thiết
bị. Tuy nhiên, không một vị chỉ huy nào của Mỹ yêu cầu hàng loạt tàu
trên biển tuần tra thay thế.
Ngoài
ra, hai nhà sử học Jonathan Parshall và J. Michael Wenger cho biết trên
tạp chí Lịch sử Hải quân của Mỹ rằng lý do Mỹ bị bất ngờ là các chỉ huy
không hiểu được một cuộc chiến với sự tham gia của tàu sân bay phát
triển nhanh tới mức nào.
Kế hoạch
tấn công vào Trân Châu Cảng gồm sự tham gia của hàng trăm máy bay xuất
phát từ nhiều tàu sân bay, rồi hợp thành một đàn ong tấn công. Đó là kỹ
năng mà Mỹ không hề biết quân độ Nhật sở hữu.
“Hải
quân Mỹ không có chút ý niệm nào về khả năng chiến đấu của các tàu sân
bay của Nhật và vì vậy không thể đánh giá chính xác các mục tiêu hoạt
động”, Messrs. Parshall và Wenger cho biết.
Vì sao quân Nhật không “thừa thắng xông lên”?
Sau hai
đợt triển khai máy bay tàn phá “Hàng tàu chiến” và các căn cứ không quân
của Mỹ ở Trân Châu Cảng, phi công Nhật trở về tàu sân bay của họ trong
khải hoàn.
Đô đốc
Chuichi Nagumo khi đó dẫn đầu nhóm thảo luận xem một cuộc tấn công nữa
có khả thi hay không. Nhiều chỉ huy không quân ủng hộ tấn công tiếp, tin
rằng các kho nhiên liệu, các trạm sửa chữa và các cơ sở hậu cần của Mỹ
vào thời điểm đó rất dễ tấn công.
Là một
chỉ huy thận trọng, Nagumo đã quyết định không tấn công thêm nữa. Bởi
các máy bay Nhật cần phải được quay trở về tàu sân bay để nạp thên đạn
được, nhiên liệu vào thời điểm mà vị trí của các tàu sân bay, tàu ngầm
của Mỹ vẫn chưa được rõ. Quân Nhật cũng đã có một chiến thắng “ngoạn
mục”. Vậy tại sao lại liều đánh đổi chiến thắng đó?
“Quyết
định quay trở lại của Nagumo lúc đó khiến nhiều phi công Nhật thất vọng,
bởi họ muốn khai thác cơ hội của họ”, Prange viết.
Phá hủy
cơ sở hạ tầng của Trân Châu Cảng có thể đã buộc được Mỹ rút lực lượng
hải quân của mình về Bờ Biển Tây nước Mỹ. Trong suốt nhiều thập niên,
một số nhà lịch sử cho rằng Nagumo đánh mất cơ hội có thể đã làm thay
đổi cục diện cuộc chiến.
Tuy nhiên, trong cuốn sách “Inferno”, Max Hastings cho rằng nghiên cứu mới chỉ ra rằng một cuộc tấn công tiếp là không khả thi.
“Ngày
mùa đông ngắn, nên không thể xuất kích và thu hồi (một đợt máy bay nữa)
và cũng có khả năng lượng bom của quân Nhật quá nhỏ để nhấn chìm được
các căn cứ, trạm sửa chữa của Trân Châu Cảng”, Hastings viết.
Điều gì sẽ xảy ra nếu Mỹ thắng trận?
Thế giới
sẽ khác như thế nào nếu quân Mỹ được cảnh báo vào sáng chủ nhật tháng
12 của 70 năm về trước? Rốt cục, chỉ mất có vài giờ vào buổi sáng sớm có
thể thay đổi cục diện của một trận chiến. Máy bay chiến đấu của Mỹ có
thể đã ở trên bầu trời và pháo phòng không đã sẵn sàng. Họ có thể đã bắn
hạ hàng loạt máy bay Nhật khi chúng tiến tới.
Nhưng sự
thực ngày nay là Nhật, dù chiến thắng tại Trân Châu Cảng, lại bị bại
trận trong Thế chiến II. Nhiều tàu bị phá hủy ở Trân Châu Cảng đã được
kéo lên và sửa chữa để tiếp tục tham chiến trong những trận đấu sau này.
Điều quan trọng nhất, công chúng Mỹ vốn chia rẽ về khả năng tham gia
Thế chiến II bỗng chốc trở nên đoàn kết. “Người Mỹ không còn hỏi cuộc
chiến là của ai hay hỏi họ nên làm gì với cuộc chiến nữa”, Prange viết.
Song
Prange cũng nhấn mạnh rằng Mỹ chắc chắn sẽ tham gia Thế chiến II thậm
chí ngay cả khi trận Trân Châu Cảng không xảy ra. Vấn đề là vào thời
điểm nào mà thôi. Vì vậy công chúng Mỹ có ủng hộ rộng rãi việc tham
chiến nếu không có cuộc tấn công bất ngờ của Nhật hay không luôn là một
bí ẩn lớn của lịch sử.
Nhà lịch
sử quân đội Mark Grimsley tại trường đại học bang Ohio cho rằng nếu Hạm
đội Thái Bình Dương của Mỹ phản pháo và đẩy lùi được quân Nhật, rất có
thể chỉ huy hạm đội, đô đốc Husband E. Kimmel sẽ điều các tàu chiến và
tàu sân bay thực hiện sứ mệnh truy bắt và tiêu diệt quân Nhật.
Theo
Grimsley cả hai bên có 8 tàu chiến sẵn sàng chiến đấu. Quân Nhật có một
lượng lớn máy bay trên các tàu sân bay, nhưng Mỹ có thể sẽ tận dụng các
máy bay đóng ở các căn cứ trên đất liền, trên Wake Island.
Kết cục
có thể sẽ rất khó đoán. Một chiến thắng về phía quân Mỹ có thể đã rút
ngắn được Chiến tranh Thái Bình Dương. Nhưng “một thất bại nghiêm trọng
của quân Mỹ sẽ còn tồi tệ hơn trận Trân Châu Cảng rất nhiều”, Grimsley
nhận định. “Hầu hết các tàu bị phá hủy hoặc bị chìm tại Trân Châu Cảng
cuối cùng đã được sửa chữa và hoạt động trở lại, trong khi đó tàu chiến
bị mất ở Trung Thái Bình Dương chắc chắn sẽ vĩnh viễn chìm sâu dưới hàng
ngàn mét dưới biển”, Grimsley cho hay.
Phan Anh
Theo CSM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét