Thứ Ba, 13 tháng 12, 2011

M T Đ : Cuộc Đời Chính Trị Và Tình Dục (2/12)

Mao Trạch Đông là một lãnh tụ kiệt xuất của Đảng CSTQ, một nhân vật lịch sử nổi bật của lịch sử Trung Quốc cận đại, người đã có công thống nhất và bành trướng để đưa Trung Quốc từ vai trò của một quốc gia nhược tiểu, chia rẽ và phân tán với các cuộc nội chiến đẫm máu triền miên trở thành một cường quốc như hiện nay. Nhưng đằng sau con người quỷ quyệt và vĩ đại ấy còn nhiều điều bí mật mà chúng ta nhiều người còn chưa biết.
*
3. HOÀNG ÐẾ ÐỎ MAO TRẠCH ÐÔNG
Trên thực tế, Mao có một cuộc sống rất đế vương. Dinh thự của Mao nằm ngay trung tâm của khu Trung Nam Hải, trong khu vực hoàng thành cũ. Chổ ở của Mao có lẽ là nơi an ninh nhất trên thế giới nầy. Có tới ba lớp hàng rào anh ninh chung quanh Mao. Trước hết và trong cùng là các nhân viên an ninh đội lốt phục dịch, tiếp tân, rồi đến anh ninh trong khu dinh thự, và ngòai cùng là lực lượng anh ninh thuộc Cục Bảo Vệ Trung Ương dưới quyền Uông Ðông Hưng. Việc di chuyễn của Mao được giữ kín ngoại trừ vài lãnh tụ cao cấp của đảng. Hệ thống cung cấp thức ăn cho Mao cũng rất phức tạp, vừa dựa theo cách tổ chức của Liên Xô vừa dựa theo cách tổ chức trong các triều đình vua chúa ngày xưa. Một nông trại được xây dựng đặt biệt chỉ để nuôi súc vật và trồng rau cải cho Mao và các lãnh tụ cao cấp xử dụng. Ðầu bếp chính của Mao, theo nhu cầu, gởi một danh sách đến Ban Tiếp Tế thuộc Cục Bảo Vệ Anh Ninh để nơi nầy gởi qua nông trại. Khi thức ăn được gởi đến Ban Tiếp Tế, chúng lại được chuyển qua hai phòng thí nghiệm. Phòng thứ nhất đo lường mức độ dinh dưỡng và mức độ tươi của nông phẩm, phòng thứ hai thử nghiệm để đề phòng chất độc trong thức ăn. Khi thông qua hai phòng thí nghiệm nầy, thức ăn còn phải chuyển đến phòng nếm mùi vị thức ăn để cho các nhân viên trong phòng nầy ăn trước để thử có chất độc hay không trước khi dâng lên Mao. Hệ thống ăn uống hết sức xa hoa, phong kiến và tốn kém nầy được áp dụng không những chỉ cho Mao mà cả cho các lãnh tụ cao cấp của đảng, quả thật đã phung phí không biết bao nhiêu sức người sức của. Văn phòng chủ tịch đảng kiêm chủ tịch nước của Mao nhiều khi suốt năm không hề mở cửa vì như đã nói, Mao trị nước, chăn dân từ trong phòng ngủ.
Buổi chiều trước ngày lễ Lao Ðộng, Mao cho cận vệ gọi tôi. Tôi tưởng rằng Mao đang có bịnh hoạn gì, nhưng khi tới nơi thì cận vệ của Mao báo cho biết “Mao Chủ Tịch uống mấy viên thuốc ngủ mà vẫn không ngủ được nên cho gọi Bác Sĩ vào nói chuyện”. Câu đầu tiên Mao thường dùng để hỏi người đối diện là “Có tin gì không ?” Thoạt đầu thì tôi hơi ngạc nhiên vì có tin gì mới thì Mao biết hết rồi còn phải hỏi gì nữa. Nhưng Mao giải thích ” chẳng hạn như Bác Sĩ gặp ai trong mấy ngày qua ? Các ông đã nói về chuyện gì ?”. Tôi báo cáo với Mao là tôi có gặp Phó Liên Chương. Mao nhân tiện kể tôi nghe về chuyện Phó Liên Chương theo ông ta trong cuộc vạn lý trường chinh mặc dù năm người thân của ông đã bị đảng cộng sản giết hại. Câu chuyện kéo dài mãi tới khi cơm tối được dọn lên. Lần nữa tôi lại thấy có món rau xào dầu. Thời gian sau tôi có phê bình cách ăn uống quá nhiều chất dầu của ông ta nhưng Mao chẳng bao giờ chịu nghe. Mao mời tôi món dưa xào ớt cay, rồi hỏi ý kiến về món ăn. Tôi trả lời “Nóng và cay”. Mao cười ” Ai cũng nên đôi khi nếm mùi cay đắng trong cuộc đời”.
Mao có một cuộc sống khép kín. Ít khi gặp Giang Thanh và không có bạn bè. Khẩu hiệu “Tinh Thần Diên An” biểu hiện cho tình đồng chí giữa những người sống sót sau cuộc vạn lý trường chinh thật là một điều huyền bí vì ngay cả Lưu Thiếu Kỳ va Chu Ân Lai cũng ít khi gặp mặt Mao. Phần lớn công việc được trao đổi qua giấy tờ hoặc qua các phiên họp của Bộ Chính Trị được Mao triệu tập bất thường trong dinh Trường Thọ. Những người gần gủi Mao nhất là những cận vệ của Mao. Họ phần lớn thuộc giai cấp nông dân trẻ tuổi và ít học. Mao thường tán gẩu với đám cận vệ về chuyện gái trai, cố vấn họ về cách tán tỉnh, và ngay cả còn giúp họ viết thư tình cho bồ bịch. Mao biết là ngoài chuyện tình cảm lăng nhăng, đám cận vệ ngu dốt không thể nào hiểu những chuyện khác như triết học hay lịch sử Trung Quốc. Vì vậy ông ta thường xoay qua tôi như đối tượng để bàn về những vấn đề nầy.
Sau ngày gặp Mao hôm đó là đến ngày lễ lao động 1 tháng 5. Như thông lệ, ngày 1 tháng 5 được xem là một trong những ngày lễ lớn nhất. Hôm đó tôi được tháp tùng Mao đi tham dự lễ. Tôi, lần nữa, gặp bà Tống Khánh Linh. Ðảng cộng sản trong thời gian nầy vẫn còn duy trì một số khuôn mặt “dân chủ” không cộng sản và bà góa phụ của Bác Sĩ Tôn Dật Tiên là một trong số đó. Bà Tống đã 60 nhưng trông vẫn còn đẹp và trông rất quí phái. Buổi tối, sau khi tham dự lễ, là tiệc chiêu đãi quan khách nhân ngày lễ Lao Ðộng. Tôi nhớ là tới 7 giờ rưởi Mao vẫn chưa ra xe. Mọi người đều nóng lòng. Tôi theo chân Uông Ðông Hưng và La Thoại Khanh vào gặp Mao thì thấy ông ta đang ngồi cho Hoàng Tu Tử hớt tóc. Hòang Tu Tử tên thật là Hoàng Huệ, khoảng 60 tuổi. Ông ta là thợ hớt tóc duy nhất cho Mao từ nhưng năm 1930. Sau nầy có lần Mao kể cho tôi nghe một mẫu chuyện lý thú về ông thợ hớt tóc Hoàng Tu Tử nầy. Số là trong năm 1942, đảng Cộng Sản tung ra một chiến dịch gọi là truy nã bọn nội thù. Ông thợ hớt tóc Hoàng Tu Tử không biết tại sao lại rơi vào danh sách những đối tượng cần truy tố. Những người bị truy tố bị buột phải thú nhận tội lỗi và Hoàng Tu Tử thú nhận là đã tìm cách cắt cổ Mao bằng lưởi dao cạo. Mao nói với tôi “khi nghe Hoàng Huệ khai tôi đã nghi ngờ, nếu ông ta muốn giết tôi thì lâu nay khối gì cơ hội”. Sau đó an ninh đưa ông thợ cạo râu Hoàng Huệ đến gặp Mao thì vỡ lẻ ra rằng ông ta bị hành hạ và bắt buột phải khai như vậy. Nhờ sự can thiệp của Mao mà ông thợ hớt tóc được thả và trở thành một trong những số ít người gần gủi và trung thành nhất với Mao. Khi chúng tôi vào thì Hoàng Tu Tử mới xong phần cắt tóc. La Thoại Hương giục ông ta nhưng Uông Ðông Hưng vội can ngăn “Ðừng hối, rủi ông ta lỡ tay thì thật là tai hại”. Công việc cạo râu cho Mao là cả một chuyện khó khăn vì Mao cứ cặm cụi cúi đầu đọc sách coi như không có chuyện gì. Hoàng Tu Tử phải quì xuống đất và ngữa mặt lên để cạo hàm râu dưới của Mao. Cuối cùng thì cũng xong và chúng tôi lại tháp tùng Mao tham dự buổi chiêu đải.
Trong buổi chiêu đải đêm đó, tôi cũng gặp Hồ Chí Minh bên cạnh các quan khách quốc tế khác. Hồ lúc đó đã 65 tuổi, ăn mặc như một ông nông dân chân mang dép râu. Hồ nói tiếng Trung Hoa thông thạo vì đã dành nhiều năm ở Trung Quốc. Cận vệ của Hồ Chí Minh kể tôi nghe là họ Hồ thích mọi thứ ở Trung Quốc, từ món ăn, quần áo cho đến phương tiện di chuyễn. Sau phần tiếp tân là đến phần dạ vũ. Sau cách mạng 1949, việc nhảy đầm đã bị ngăn cấm vì đảng cộng sản cho rằng nó là sản phẩm của giai cấp trưởng giả, do đó, tôi rất ngạc nhiên khi thấy Mao đích thân đứng ra tổ chức nhảy đầm. Sàn nhảy là một căn phòng rộng thênh thang được gọi là Liên Xuân Ðài. Mao tổ chức dạ vũ ở đó hàng tuần. Ðêm đó là lần đầu tiên tôi tham dự.
Ngay khi vừa bước vào phòng Mao đã tức khắc bị bao vây ngay bởi một bầy gái đẹp, trẻ măng, hấp dẫn do Cục Bảo Vê tuyển lựa từ các đoàn Văn Công. Các cô lần lượt đến mơn trớn rủ rê Mao Chủ Tịch ra sàn nhảy trong lúc ban nhạc chơi toàn là nhạc tây phương với những điệu Fox, Walt và Tango. Mao không từ chối cô nào cả. Mao nhảy rất chậm chạp, gần như đi bộ. Cứ sau khi nhảy xong với một cô, Mao lại kéo cô ta ngồi lại gần và tâm tình đôi ba phút cho đến khi một cô khác tới mời Mao. Và cứ thế Mao nhảy với từng cô, từ cô nầy đến cô khác. Tôi để ý chỉ thấy có Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ðức nhưng không thấy Giang Thanh. Bởi vì tôi thuộc thành phần thiểu số đàn ông trong đám nhảy, nên tôi cũng được các cô mời nhảy đôi ba bản. Ngoài âm nhạc tây phương, thỉnh thoảng ban nhạc lại chơi xen kẻ vài bài nhạc Trung Hoa. Những đoàn văn công thường do Cục Bảo Vệ an ninh tuyển lựa và tổ chức để phục vụ Mao và những lãnh đạo cao cấp. Ða số các đòan viên là thiếu nữ trẻ đẹp, có tài ca múa và thấm nhuần tư tưởng chính trị. Mao mê gái và mê nhảy đầm đến nỗi sau nầy, vào năm 1961, ông ta hạ lệnh di chuyễn cả phòng ngủ của ông ta tới sát vách phòng nhảy để “nghỉ xả hơi” khi nhảy mệt. Tôi thường thấy Mao dắt tay các vũ công vào phòng ngủ của ông ta và rồi vói tay gài then cửa.
Trong hàng lãnh đạo cao cấp chỉ có Thống Chế Bành Ðức Hoài, Phó Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương là có gan phê bình đời sống trụy lạc sa đọa của Mao. Thống Chế Bành phê bình Mao hai lần, lần thứ nhất vào năm 1953 và lần thứ hai trước cuộc họp của Bộ Chính Trị. Bành Ðức Hoài là người thẳng thắng, bộc trực và chân thật. Ông ta tố cáo Mao đã có lối sống như một ông Hoàmg bên cạnh ba ngàn cung nữ. Thống Chế họ Bành cũng phê bình cả Bộ Trưởng La Thoại Khanh và Uông Ðông Hưng. Những đoàn văn công vì vậy mà phải giải tán nhưng Mao vẫn tiếp tục được cung cấp đầy đủ gái đẹp từ các đoàn văn công từ các tỉnh và từ các quân binh chủng.
4. MAO TRẠCH ÐÔNG VÀ KHRUSHCHEV
Mùa hè 1956, tôi tháp tùng Mao và Bộ Chính Trị đi thị sát thành phố Quảng Châu và ở lại nơi đó một thời gian. Thành phố Quảng Châu vào mùa hè, trời rất là oi bức. Mao sống trong Dinh Thự số 3 với những căn phòng rộng thênh thang. Mỗi ngày các nhân viên phục dịch phải mang vào chỗ Mao ở năm thùng nước đá để làm dịu bớt không khí nóng nực của mùa hè Quảng Châu. Chúng tôi thì không có tiêu chuẩn nước đá, chỉ được xài quạt điện. Ðêm xuống thì muỗi ơi là muỗi. Muỗi tràn ngập khắp nơi, không những chúng tôi chịu không nỗi mà ngay cả Mao cũng trách mắng nhân viên hầu cận mỗi khi ông ta bị muỗi cắn. Mãi đến sau nầy khi bộ y tế nhập cảng được ít thuốc diệt muỗi DDT từ Hông Kông thì tình trạng mới bớt căng thẳng. Tôi cố thuyết phục Mao không nên ở lại Quảng Châu quá lâu nhưng Mao lại có ý định chính trị khác nên cứ chần chừ không muốn trở lại Bắc Kinh. Trong thời gian vắng bóng Mao, ở Bắc Kinh đã xuất hiện một làn sóng dư luận và báo chí phê bình “Chủ nghĩa phiêu lưu”. Những bài báo nầy lần lượt xuất hiện trên Nhân Dân Nhật Báo, cơ quan ngôn luận chính thức của Ðảng và Nhà nước Trung Hoa. Nội dung các bài báo đề nghị việc phát triển công nghiệp và nông nghiệp phải nên được tiến hành song phương và đều đặn. Không ai có thể ngờ những màn phê bình chỉ trích chính sách của Mao là do chính Mao đạo diễn để gài bẫy các thành phần chống đối.
Vài hôm sau khi tôi thất bại trong việc thuyết phục Mao trở về Bắc Kinh, Uông Ðông Hương và La Thoại Khanh tới gặp tôi để hỏi ý kiến về mức độ trong sạch của nước trên sông Trân Hà. Mao Trạch Ðông quyết định sẽ bơi qua 3 con sông lớn nhất Trung Hoa: Trân Hà ở Quảng Châu, Trường Giang ở Hồ Nam và Dương Tử ở Hồ Bắc. Nói chung thì không ai muốn cho Mao bơi trên bất cứ con sông nào trong số ba con sông kể trên vì cả ba đều là những con sông rất lớn và rất nguy hiểm. Tuy nhiên công việc thử nghiệm chưa kịp thực hiện thì Mao đã quyết định bơi. Sáng hôm đó Mao từ phòng ngủ bước ra trong bộ áo tắm dài màu trắng. Tôi, Uông Ðông Hưng, Dương Thượng Côn v.v vội vả chạy theo sau. Từ khi Mao quyết định cho đến khi ông ta nhảy xuống sông quá nhanh chóng đến nỗi ngoại trừ Mao không ai kịp thay đồ tắm cho đàng hoàng, tất cả đều mặc đồ lót hì hục bơi theo Mao.
Mao bơi rất nghề và thoải mái trong khi tôi thì ráng hết sức chỉ mong khỏi bị chết chìm. Mao như hiểu sự khó khăn của tôi nên gọi tôi bơi lại gần để dặn dò “Bác Sĩ có vẻ sợ chìm, đừng nghĩ về chuyện đó. Nếu nghĩ mình sẽ chết chìm, có khi chìm thật đấy”. Chúng tôi bơi dọc sông Trân Hà chừng hai tiếng đồng hồ thì nghĩ để tắm rửa và ăn trưa. Giang Thanh cũng đến cùng ăn trưa với chúng tôi. Mao vui vẻ như vừa thắng trận, vừa cười vừa nói “Mấy người nói rằng nước sông Trân Hà dơ dáy, nhưng chỉ cho tôi coi có cái gì là thuần túy trong sạch đâu ? Mọi thứ đều có chất dơ. Nếu các người nuôi cá bằng nước chưng cất, chúng sẽ chết ngay”.
Tối hôm đó Mao nói với tôi “Tôi muốn bơi trên cả ba con sông, La Thoại Khanh và Uông Ðông Hưng thì cứ ngăn ngăn cản cản mặc dù sáng nay họ đã thấy không có chuyện gì xảy ra cả”.
Liên Xô đang chuẩn bị tổ chức bốn mươi năm thành lập Cộng Hòa Liên Bang Xô Viết vào tháng 11 năm 1957 và Khrushchev đã gởi thư mời các lãnh tụ Cộng đảng trên khắp thế giới đến tham dự, trong dó dĩ nhiên có cả Mao Trạch Ðông. Mao năm đó 63 tuổi và chỉ đến Liên Xô một lần trước đó nhân dịp đàm phán các hiệp ước hữu nghị với Stalin. Tình hình Trung Quốc đã ổn định, chiến dịch chống hữu khuynh đã thành công rực rở. Theo lời Bộ Trưởng Ngoại Giao Trần Di kể lại với tôi thì có hơn nửa triệu trí thức đã bị phân loại là phần tử hữu khuynh và bị gởi đến các trại tập trung.
Chủ nghĩa xã hội tại Trung Quốc đang trên đà chiến thắng. Cách mạng được thực hiện một cách khẩn trương ráo riết từ thôn quê cho đến thành thị. Mao muốn đi Liên Xô. Trong thâm tâm Mao muốn đi Liên Xô không phải chỉ để tham dự ngày hội nhưng đến như một kẻ chiến thắng, đến để thách thức Khrushchev. Ngày 2 tháng 11 năm 1957, Mao cầm đầu một phái đoàn hùng hậu lên đường thăm Liên Xô. Ngoài tôi ra còn có Bác Sĩ Hoàng Thụ Tất, Phó Giám Ðốc Cục Y Tế Trung Ương cũng tháp tùng Mao để lo lắng sức khỏe cho đoàn đại biểu. Giang Thanh sau đó lại đề nghị thêm Bác Sĩ Lý Huệ Dân gia nhập ban y tế chúng tôi. Việc chuẩn bị sức khỏe của Mao trong chuyến đi cũng rất là phiền toái vì Bác Sĩ Lý Huệ Dân là Ðông Y Bác Sĩ. Ở Liên Xô chắc chắc không thể tìm đâu ra những món thuốc tàu mà ông ta có thể sẽ cần dùng trong việc chăm sóc sức khỏe cho Mao. Ngoài các bác sĩ ra, ban y tế còn có sự phụ giúp của bà Ngô Húc Quân, với tư cách là y tá trưởng ở Trung Nam Hải. Liên Xô cũng gởi đến trước một bác sĩ để giúp đỡ khi chúng tôi cần đến.
Liên Xô gởi hai chiếc máy bay sang để đón Mao và phái đoàn. Cả hai đều thuộc loại TU-104s. Mao, Tống Khánh Linh, Bác Sĩ Liên Xô và tôi cùng ngồi trong một chiếc. Phần còn lại của đoàn tùy tùng ngồi trên chiếc sau. Trong suốt hành trình từ Bắc Kinh qua Mạc Tư Khoa, Mao chẳng hề đá động gì đến thức ăn do các tiếp viên phi hành chuẩn bị trong lúc thì viên bác sĩ Liên Xô thì lợi dụng cơ hội để uống vài ly Vodka miễn phí ngay từ khi máy bay vừa cất cánh.
Nikita Khrushchev chào đón Mao và đoàn tùy tùng ngay tại phi trường. Cùng ra tiếp đón Mao tôi cũng nhận thấy cả nhân vật số hai Nikolai Bulganin và ông bạn cũ của tôi là Anastas Mikoyan. Mikoyan tay bắt mặt mừng khi gặp lại tôi, tuy nhiên vì chúng tôi không có thông dịch viên riêng nên cả hai chúng tôi mạnh ai nấy nói mà chẳng ai hiểu ai đã nói gì. Tôi đoán mò là ông ta nhắc lại căn bịnh mà tôi đã giúp để chửa trị mấy năm trước đây. Khrushchev rất kính trọng và tỏ ra niềm nở với Mao. Y đích thân tháp tùng Mao đến tận dinh thự nơi Mao và phái đoàn ở lại. Dinh thự nguy nga là nơi cư ngụ trước đây của Nữ Hoàng Nga Catherina. Về phần Mao, ông ta lại tỏ thái độ hơi lạnh nhạt với Khrushchev. Trên đường từ phi trường về nơi cư ngụ, Mao lưu ý thái độ thờ ơ của người dân Liên Xô không giống như tinh thần “hồ hỡi phấn khởi” ở Trung Quốc sau cách mạng. Mao thố lộ nhận xét của ông ta với chúng tôi ngay trong ngày đầu tiên đến Mạc Tư Khoa “Khrushchev không có sự ủng hộ của nhân dân kể từ khi ông ta bắt đầu chiến dịch hạ bệ Stalin”.
Tôi, Diệp Tử Long, Hoàng Kính Tiên, Lý Ngân Kiều, Lâm Khắc và bộ tham mưu riêng của Mao ở chung một dinh thự. Ðoàn đại biểu đảng và nhà nước Trung Quốc do Mao lãnh đạo gồm Tống Khánh Linh, Ðặng Tiểu Bình, Bành Chân, Bành Ðức Hoài, Lục Ðịnh Nhất, Dương Thượng Côn, Trần Bá Ðạt, Hồ Kiều Mộc cũng ở trong dinh thự nầy. Mao tỏ ra đắc ý và phấn khởi về sự tiếp đón đã dành cho ông ta và phái đoàn hoàn toàn khác với chuyến đi phó hội năm 1949. Mao nhận xét cách đối xử của Liên Xô với một giọng điệu bén nhọn và chấm dứt với một nụ cười mỉa mai “Hãy nhìn sự vào sự đối xử hoàn toàn khác mà họ đang dành cho chúng ta. Ngay cả khi đứng trên đất Cộng sản của chính họ, họ cũng phải biết rằng ai mạnh ai yếu, thật là đồ đáng khinh”. Chưa bao giờ tôi nghe từ cửa miệng Mao thoát ra một giọng điệu đầy miệt thị và chua chát như thế.
Chúng tôi thăm viếng và đặt vòng hoa trước chiếc quan tài bọc kính của Lê Nin và Stalin. Thi hài của hai lãnh tụ Cộng Sản Liên Xô nằm co rút và khô cứng. Tôi biết nhiều phần thân thể của họ đã bị rả nát và được thay thế bằng sáp. Lúc đó tôi chưa nghĩ gì đến hai chục năm sau lại tới phiên tôi phải lo lắng việc lưu trữ xác Mao. Mao chẳng quan tâm hay tò mò gì mấy đến sinh hoạt văn hóa Nga. Ông ta ăn uống một mình. Mặc dù trong mỗi bữa ăn đều gồm cả hai loại thức ăn, Nga và Tàu nhưng Mao chỉ ăn những món Hồ Nam do chính đầu bếp của ông ta nấu mà thôi. Giống Mao, tôi cũng không hợp với đồ ăn Nga cho nên trong một tối Mao rủ tôi cùng ăn, tôi không ngần ngại ngồi xuống ăn uống ngon lành ngay. Mao nhìn tôi ăn mà cười “Tôi biết ngay là Bác Sĩ chưa ăn tối mà”.
Một đêm, Khrushev mời Mao tham dự buổi trình diễn vũ khúc Swan Lake nỗi tiếng thế giới do của đoàn vũ Ba-Lê Liên Xô thực hiện. Chưa xong phần hai, Mao đã tỏ vẻ chán nản ngay. Ông ta quay sang Khrushev nói “cả đời tôi cũng không thể nào nhảy như thế được, còn đồng chí thì sao”. Khrushev gật đầu “tôi cũng vậy”. Cuốn màn hai, Mao quay sang tôi “Họ nhảy kiểu gì kỳ quặc vậy ? tại sao lại phải nhảy bằng đầu ngón chân, tôi cảm thấy thật khó chịu, tại sao lại không múa bình thường ?”. Tôi không nghĩ là Mao không biết một tí gì về vũ Ba-Lê nhưng Mao chỉ chứng tỏ rằng mình chẳng thèm quan tâm đến văn hóa Nga mà thôi. Trong những buổi chiêu đãi mà Mao tham dự trong thời gian thăm viếng Liên Xô, chỉ có hôm thăm viếng sinh viên Trung Quốc đang du học tại Liên Xô là Mao tỏ ra vui vẻ thật tình.
Diễn hành kỷ niệm bốn mươi năm thành lập nhà nước Liên Bang Xô Viết được tổ chức vào ngày 7 tháng 11. Tất cả chúng tôi được đưa tới quảng đường đỏ để xem diễn hành. Mao và Khrushev đứng trên hành lang của Lăng Lê Nin. Tôi đứng bên cạnh lãnh tụ Cộng Ðảng Estionia. Ông ta bằng một tiếng Anh thông thạo nói với tôi rằng hy vọng một ngày ông ta sẽ viếng thăm Trung Quốc, một nơi mà ông ta gọi là xa xôi và huyền bí.
Mặc dù nhiều khác biệt vẫn còn tồn tại giữa Mao và Khrushchev, Mao đã tỏ ra hài lòng với nội dung của bản thông cáo chung được công bố như kết quả của chuyến viếng thăm Liên Xô. Mao nói “vào năm 1984, khi Mark và Engels công bố Tuyên Ngôn Ðảng Cộng Sản và phát động phong trào Cộng Sản trên toàn thế giới. Bây giờ 100 năm sau bản Tuyên Bố Mạc Tư Khoa đã tóm tắt lại phong trào đó và phát họa ra tương lai của chủ nghĩa Cộng Sản”. Mao tiên đoán trong vòng 15 năm, Xô Viết sẽ bỏ xa Hoa Kỳ trong tổng sản xuất sắt thép và Trung Quốc sẽ qua mặt Anh Quốc. Nói chung trong vòng 15 năm, thế giới Cộng Sản sẽ mạnh hơn thế giới tư bản. Trong điều kiện đó, nhân loại sẽ chín mùi cho một cuộc cách mạng Cộng Sản trên phạm vi toàn thế giới. Trong đầu óc của Mao hôm đó đã thai nghén chương trình kinh tế sau đó được Mao gọi là “bước tiến nhảy vọt”. Sau nầy trong hồi ký của Khrushchev, ông ta có nhắc lại diễn văn của Mao và ví Mao như là con cóc nằm đáy giếng thấy trời bằng vung. Mao không có một cơ sở nào để quả quyết rằng chủ nghĩa Cộng Sản có thể vượt qua được chủ nghĩa Tư bản. Tuy nhiên mầm mống của chính sách điên rồ “Bước Tiến Nhảy Vọt” đã bắt đầu nhen nhúm từ dạo đó.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét