Thứ Ba, 13 tháng 12, 2011

tM T Đ: Cuộc Đời Chính Trị Và Tình Dục (9/12)

Mao Trạch Đông là một lãnh tụ kiệt xuất của Đảng CSTQ, một nhân vật lịch sử nổi bật của lịch sử Trung Quốc cận đại, người đã có công thống nhất và bành trướng để đưa Trung Quốc từ vai trò của một quốc gia nhược tiểu, chia rẽ và phân tán với các cuộc nội chiến đẫm máu triền miên trở thành một cường quốc như hiện nay. Nhưng đằng sau con người quỷ quyệt và vĩ đại ấy còn nhiều điều bí mật mà chúng ta nhiều người còn chưa biết.
*
18. THỐNG CHẾ LÂM BƯU, BINH NGHIỆP VÀ CÁ TÍNH
Trong thời gian chúng tôi còn ở lại Vũ Hán vào đầu tháng Giêng năm 1966, Mao cho phép tôi tham dự một buổi họp được tổ chức trong phòng tiếp tân khổng lồ được tại nhà khách Võ Hán Mai của tỉnh Vũ Hán. Lúc sau nầy, Mao thường khuyến khích các nhân viên trong bộ tham mưu của ông tham gia những buổi họp như vậy để nắm rõ thêm tình hình. Ba người trong “Nhóm Năm Người của Cách Mạng Văn Hóa” vừa từ Bắc Kinh đến. Ủy Ban nầy được thành lập với trách nhiệm phê bình vở kịch “Hải Thoại bị giải chức”. Vở kịch viết về sự tích Minh Hoàng Ðế giải nhiệm viên quan Hải Thoại. Các ủy viên của Ủy ban bao gồm Trưởng Ban Tuyên Huấn trung ương Lục Ðịnh Nhất, Ủy Viên Bộ Chính Trị Khang Sinh, Thị Trưởng Bắc Kinh kiêm Bí Thư Trung Ương Ðảng Bành Chân, Phụ tá Trưởng Ban Tuyên Huấn Châu Dương, và Tổng Biên Tập Nhân Dân Nhật Báo Ngô Lãng Tây. Mao chủ tọa phiên họp. Mao kể lại rằng vào 21 tháng Chạp, y có nói với Trần Bá Ðạt và Khang Sinh rằng bài báo của Thiệu Văn Nguyên phê bình vở kịch “Hải Thoại bị giải chức” khá hay nhưng vẫn có một điều thiếu sót về sự liên hệ giữa việc Minh Hoàng Ðế giải nhiệm Hải Thoại và Mao giải nhiệm Bành Ðức Hoài. Mao cho rằng kịch tác gia Ngô Hàm khi xây dựng vở kịch đã có dụng ý biện hộ cho Bành Ðức Hoài và phê bình Mao.
Sau đó, Mao quay sang hỏi Bành Chân, người lãnh đạo của ủy ban, “liệu Ngô Hàm có phải đang chống lại đảng, chống lại xã hội chủ nghĩa không ?” Trước khi Bành Chân trả lời, Khang Sinh đã cắt ngang “Ngô Hàm là mầm mống độc hại đang chống lại đảng”. Thế là cả phiên họp im phăng phắc không ai dám cải lời y.
Cuối cùng Bành Chân phát biểu đại ý rằng câu chuyện Minh Hoàng Ðế giải nhiệm Hải Thoại chỉ là chuyện trong trường học chứ chẳng dính dáng gì đến chính trị cả. Bành Chân ngỏ ý muốn trình bày quan điểm của y được tóm tắt trong bản dự thảo “Của Nhóm Năm Người Báo Cáo Trung Ương”, ông ta phát biểu rằng “Tôi nghĩ chúng ta nên chấp hành chỉ thị của Mao chủ tịch, hãy để trăm hoa đua nở, trăm trường phái lên tiếng.” Bản dự thảo, theo Bành Chân, đã được Bộ Chính Trị chấp thuận, chỉ còn chờ sự đánh giá và chấp thuận cuối cùng của Mao. Nhưng Mao không nói rõ là chấp thuận hay không, chỉ nói lững lờ “Các đồng chí làm cho xong, tôi không cần thiết phải xem tài liệu đó”. Ðiều nầy cũng có nghĩa là Mao không đồng ý.
Bốn ngày sau, bản dự thảo về tài liệu phê bình vở kịch “Hải Thoại bi giải chức” được phân phối trong hàng ngũ cao cấp của đảng. Quan điểm trong tài liệu hoàn toàn là củ*a Bành Chân và người ủng hộ ông ta là Lục Ðịnh Nhất. Mao chống đối, ông ta đồng ý với Khanh Sinh rằng vở kịch là mầm mống độc hại và tác giả Ngô Hàm thật sự là kẻ chống đảng. Trong thời gian tài liệu được phân phối, Mao nói với tôi “các phần tử phản động không ngã gục dể dàng trừ phi chúng ta phải đánh chúng thật mạnh.” Và, như Mao nói, ông ta đang sẵn sàng đánh gục đối thủ. Bành Chân cũng sắp sửa bị thanh trừng.
Bản đánh giá của Bành Chân đã làm Mao khó chịu và căng thẳng. Bịnh mất ngủ nặng nề thêm. Nhiều hôm tôi thấy Mao thức trắng suốt ngày đêm. Thuốc ngủ cũng chẳng hiệu lực gì cả. Cuối cùng tôi buột phải tăng liều lượng thuốc ngủ cao hơn Mao mới ngủ được. Một hôm, Trương Ngọc Phượng báo với tôi rằng Mao chủ tịch vừa cho cô ta biết hình như đêm hôm qua có ai rình mò trên nóc nhà. Nghe xong tôi tôi gần như muốn bật cười. Chuyện đó chẳng khác gì chuyện hoang đường. Chỗ ở của Mao Trạch Ðông là bất khả xâm phạm. Tuy nhiên các cận vệ của Mao đã khám phá ra vài dấu chân, nhưng không phải của người ta mà là của con mèo hoang. Sau khi đặt mồi đặt bẫy, đám cận vệ cuối cùng đã bắt được hai chú mèo hoang. Ngay cả sau khi thấy hai chú mèo bị bẫy chết trước mắt, Mao vẫn chưa hết lo, ông ta vẫn cứ cho rằng có người đã rình mò trên nóc dinh. Chỉ vài giờ sau khi bắt hai chú mèo hoang, chúng tôi lại tháp tùng Mao lên đường đi Hàn Châu. Ngay sau khi chúng tôi đến thì vợ Lâm Bưu là Diệp Quần, từ Tô Châu gọi điện thoại và xin phép yết kiến Mao ngay. Tình hình chính trị đã bắt đầu căng thẳng. Sáng hôm sau thì Diệp Quần đến và họp kín với Mao suốt ba tiếng đồng hồ. Cả hai đều không tiết lộ những gì họ đã bàn với nhau.
Ngày hôm sau thì Giang Thanh đến. Thái độ và dáng dấp của bà ta hoàn toàn thay đổi. Từ một con bịnh kinh niên vào năm 1962, Giang Thanh đã đi đứng mạnh dạn, lưng thẳng, chẳng có một dấu hiệu gì chứng tỏ là bà ta bị bịnh. Bà ta gặp Mao vắn tắt và bay trở về Thượng Hải ngay.
Vài ngày sau thì tôi biết Giang Thanh và Lâm Bưu đang thành lập một liên minh. Cả hai đã triệu tập một phiên họp ở Thượng Hải để bàn về mục tiêu chính trị của các lực lượng vũ trang.
Tôi chưa hề tiếp xúc với Lâm Bưu trước đó. Mặc dù Lâm Bưu giữ nhiều chức vụ cao cấp trong đảng và quân đội nhưng y lại ít khi xuất hiện, ngay cả trong những ngày lễ lớn ở Thiên An Môn. Lâm Bưu là một trong mười thống chế của quân đội Trung Quốc và nỗi tiếng là một nhà lãnh đạo quân sự thông minh, gan dạ. Ngay cả trước khi gặp ông ta, tôi đã có nhiều phán phục dành cho viên Thống Chế tài ba lỗi lạc nầy.
Một ngày sau khi Mao và đoàn tùy tùng đến Thượng Hải, Lâm Bưu xuất hiện. Ðiều chạm vào mắt tôi về con người đặt biệt nầy là quân phục của y đang mặc. Bộ quân phục Lâm Bưu mặc bó sát người, chật đến nỗi giống như dán keo lên người ông ta. Lâm Bưu là một con người mảnh khảnh. Sau khi bước vào phòng, Lâm Bưu cỡi áo choàng ra nhưng lại không lấy mủ xuống, dường như để che cái đầu sói của y. Thống Chế họ Lâm chỉ gật nhẹ chào tôi nhưng không nói một lời.
Lâm Bưu và Giang Thanh họp kín suốt ba tiếng đồng hồ. Trong khi ngồi chờ ở phòng ngoài, tôi có dịp tiếp chuyện với viên thư ký của Lâm Bưu và biết thêm vài chi tiết về đời tư của thống chế họ Lâm nầy. Lâm Bưu, mặc dù ở ngoài co tiếng như một lãnh tụ quân sự tài ba đảm lược, thật sự lại đang mắt bịnh thần kinh ưu uất. Họ Lâm rất sợ ánh sáng và gió nên rất ít khi đi ra ngoài. Giống như Giang Thanh, những tham vọng chính trị đã làm cho căn bịnh được tạm thời lắng xuống nhưng không có nghĩa là biến mất.
Tôi khám phá ra thêm nhiều điều vào tháng 8 năm 1966 khi Uông Ðông Hưng yêu cầu tôi đến khám bịnh cho Lâm Bưu. Vị trí chính trị của Lâm Bưu đang trong thời kỳ cực thịnh nên cả Uông Ðông Hưng cũng muốn đồng minh với Lâm Bưu. Thế là tôi và Uông Ðông Hưng đến viếng thăm thư dinh của Thống chế họ Lâm.
Khi chúng tôi bước vào phòng thì Lâm Bưu đang nằm trên giường với Diệp Quần, vợ của y. Ðầu của y cuộn tròn trong tay vợ, áp mặt vào ngực bà ta. Lâm Bưu đang khóc thút thít còn Diệp Quần thì đang cố vỗ về, dỗ dành y giống như mẹ ru con. Trong đầu tôi hình ảnh của một Lâm Bưu khét tiếng đã biến mất. Thống Chế Lâm Bưu đúng là chẳng ra thống chế gì cả. Tôi nghĩ một con người với tính tình ưu uất như vậy không thể nào có thể đảm đương trách nhiệm của một lãnh tụ quốc gia được.
Các bác sĩ, sau khi xem xét, đã khám phá ra là y bị bịnh sạn thận. Một hồi lâu sau khi được hút nước tiểu ra và uống thuốc, Lâm Bưu bớt đau nên đã trở nên tỉnh táo hơn. Tuy nhiên sự kính trọng của tôi về viên thống chế nầy cũng đã không còn như trước nữa. Bịnh sạn thật công nhận là rất đau nhưng dù sao mình cũng là thống chế coi quản toàn quân, lẽ nào lại vùi mặt khóc thút thít trong ngực vợ như một đứa trẻ con như thế.
Trong khi chúng tôi chờ xem diễn tiến phục hồi của căn bịnh, Diệp Quần kể chúng tôi nghe chuyện Lâm Bưu còn bị thêm bị bịnh ghiền áp phiện và sau đó ghiền cả ma túy. Năm 1949 Lâm Bưu được gởi sang Liên Xô để cai thuốc. Bịnh ghiền tuy được cai khỏi nhưng cũng cá tính kỳ quái của y vẫn tiếp tục như xưa. Lâm Bưu sợ gió, sợ ánh sáng nhưng sợ nhất là sợ nước. Y sợ nước đến nỗi chỉ nghe tiếng nước chảy thôi cũng đủ làm cho y bị ỉa chảy trong quần tức khắc. Lâm Bưu không hề uống nước. Vợ y sợ y thiếu chất nước trong người nên nhúng bánh xốp nhỏ vào trong nước rồi đút cho Thống Chế nhà ta ăn. Lâm Bưu cũng chưa hề xử dụng cầu tiêu để đi đại tiện. Khi cần phải đi đại tiện, viên thống chế họ Lâm nỗi tiếng nầy che mền và đi cầu ngay trong phòng ngủ.
Tôi hết sức ngạc nhiên khi biết những chuyện riêng tư về Lâm Bưu. Tôi cũng không hiểu tại sao Mao Trạch Ðông lại đi phong một tên khủng hoảng tâm thần nặng như vậy lên hàng lãnh đạo cao cấp nhất nhì trong đảng và quân đội. Mai mốt đây, Lâm Bưu sẽ được tung hô như là “đồng chí thân cận nhất của Mao Chủ Tịch” và sẽ là người lãnh đạo tối cao của mấy trăm triệu dân Trung Quốc. Sau khi từ tư dinh của Lâm Bưu trở về, tôi báo cáo lại Mao những gì tôi đã biết nhưng Mao nghe mà chẳng bình luận gì. Tôi chưa hề nói với bất cứ một ai khác, kể cả những lãnh đạo trung ương đảng. Tại Trung Quốc, việc tiết lộ những tin tức như vậy cũng là một trọng tội chính trị.
Mao đến Thượng Hải vào ngày 15 tháng Ba để triệu tập một hội nghị Bộ Chính Trị mở rộng để bàn về chuyện văn hóa. Trong phiên họp nầy Mao nêu đích danh bốn đảng viên cần được phê bình trong đó có Ngô Hàm, tác giả của vở kịch “Hải Thoại bị giải chức”. Theo Mao, những người nầy là đảng viên Cộng Sản trên giấy tờ nhưng là đảng viên Quốc Dân Ðảng trong tư tưởng. Mao đề nghị một cuộc “Cách mạng văn hóa” trong văn học, lịch sử, luật pháp và kinh tế. Tôi thú thiệt quả là rất thật thà khi hy vọng rằng cuộc cánh mạng văn hóa chỉ giới hạn về văn hóa mà thôi.
Vào cuối tháng Ba năm 1966, vài ngày sau khi phiên họp Bộ Chính Trị mở rộng và chúng tôi còn ở Thượng Hải, Mao tiếp xúc nhiều lần với Giang Thanh, Khanh Sinh, và Trương Xuân Kiều. Mao đang thực hiện một kế hoạch tấn công với hai mủi dùi. Một mặt tấn công vào các phần tử trí thức tư sản và mặt khác tấn công vào kẻ thù của cá nhân Mao. Chưa bao giờ trước đó Mao mở một chiến dịch rộng lớn nhằm chống lại các lãnh đạo trung ương như vậy.
Tháng sau, Mao triệu tập một phiên họp Bộ Chính Trị khác, lần nào Mao chính thức phê bình Bí Thư Ðảng Bộ Bắc Kinh Bành Chân. Trước đây Mao từ chối việc duyệt y bản báo cáo của Bành Chân là một hành động chẳng khác nào để Bành Chân tự đào mộ cho mình, nay Mao lần nữa gán cho Bành Chân cái mủ khác là chống lại đảng. Mao chỉ thị giải tán Ủy Ban Văn Hóa do Bành Chân lãnh đạo. Bầu không khí trong phiên họp trở nên vô cùng căng thẳng.
Ủy Ban Thường Trực Bộ Chính Trị được triệu tập lần nữa vào 24 tháng 4 năm 1966. Kết quả của phiên họp là sự ra đời của Tiểu Ban Cách Mạng Văn Hóa đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ủy Ban Thường Trực Bộ Chính Trị. Thành viên của tiểu ban nầy là những tên cực tả, bao gồm Trưởng Ban Trần Bá Ðạt, Cố Vấn Khang Sinh, Phó Giám Ðốc Giang Thanh, Phó Giám Ðốc Trương Xuân Kiều và nhiều thành viên tả khuynh khác.
Việc Giang Thanh tham gia ủy ban làm tôi hết sức lo ngại. Mao cũng biết điều nầy nên khuyên tôi nên làm hòa với bà ta giống như cháu của Mao là Mao Viễn Tân đã làm trước đây. Mao Viễn Tân nguyên là một sinh viên của trường đại học quân sự ở miền cực bắc Trung Quốc. Từ khi viết thư xin lỗi Giang Thanh, quan hệ giữa hai người trở nên tốt đẹp hơn. Giang Thanh bổ nhiệm Mao Viễn Tân làm phụ tá cho bà ta và là tiên phong trong các chiến dịch chống lại các đối thủ trong cách mạng văn hóa. Mao Viễn Tân thăng quan tiến chức vùn vụt, chỉ trong vòng sáu năm y trở thành chính ủy của quân khu Sầm Giang, một khu vực gần biên giới Mãn Châu.
Trong thời gian ở Hàng Châu, Mao rất là cao hứng. Chính quyền địa phương tổ chức dạ vũ hàng đêm dành cho Mao. Khoảng giữa tháng 6, Mao muốn về thăm quê lần nữa. Hôm 18 tháng 6, chúng tôi tháp tùng Mao trở lại quê hương là Thiều Sơn của y. Trong lần viếng thăm lần trước vào tháng 6 năm 1959, Mao có nói với Ðào Trú, hiện đang là bí thư Cục Trung Nam, rằng y muốn một ngày sau khi hồi hưu y sẽ trở về quê hương Thiều Sơn và sống trong túp lều tranh. Ðào Trú đã đáp ứng bằng cách xây cho Mao không phải mái nhà tranh mộc mạc nhưng là một biệt thự nguy nga tráng lệ.
Biệt thự nằn trên lưng chừng đồi, được bao bọc chung quanh bởi những khu rừng kín đáo và những ruộng nho. Mao rất rành khu vực vì hồi nhỏ ông ta thường đi nhặt củi trong những khu rừng lân cận, và thường hay ngủ trưa trên những ngọn đồi.
Bắc Kinh dường như quá xa xôi. Hai ba ngày mới có một tùy phái tin cẩn giao cho Mao các tin tức về cách mạng văn hóa đang tiến hành ở thủ đô. Qua trung gian của người tùy phái tôi biết Bắc Kinh đang rơi vào hổn loạn. Trường học bị đóng cửa, học sinh tràn ra đường phố. Không một ai có vẻ đang nắm quyền kiểm soát thủ đô.
Tôi biết ít tin về ông thủ trưởng cũ của tôi, bác sĩ Phú Liễu Sanh. Bác Sĩ họ Phu mặc dù là bạn cố tri của Mao và đã thật sự hồi hưu nhưng cũng không tránh khỏi họa. Ðám phản loạn cách mạng văn hóa đã tới tận nhà bắt ông. Bác Sĩ Phu đã cố gởi Mao một lá thư cầu cứu, Mao nhận được và có ý định can gián nhưng đã quá trễ. Bác sĩ đã chết trong đấu tố chống ông ta và ngay cả thi hài của ông cũng không tìm thấy.
Thời tiết ở quê Thiều Sơn của Mao thật oi bức, Mao đổi ý và chỉ thị đoàn tùy tùng đi Vũ Hán. Ở Vũ Hán, chúng tôi nhận tin tức Bắc Kinh nhiều hơn và dể dàng hơn. Tôi nhận được lá thư đầu từ vợ tôi, mới biết rằng hơn một năm nay tôi chưa về nhà. Mao thật sự vui mừng khi được báo cáo về diễn tiến của Cách Mạng Văn Hóa. Trong một lá thư gởi cho Giang Thanh, Mao viết ” Mỗi ngày tôi đọc tài liệu với niềm hân hoan và thích thú. Sự hỗn loạn lớn sẽ dẫn đến trật tự lớn.” Mao cũng nhắc nhở Giang Thanh ” Ðừng say sưa với chiến thắng, hãy nghĩ thường xuyên đến những thất bại, lỗi lầm. Tôi đã dặn bà không biết bao nhiêu lần.” Giang Thanh mừng như mở cờ trong bụng khi đọc những dòng nầy đến nỗi bà ta in ra và phân phối cho mọi người trong ban tham mưu cùng đọc. Dù trong thư có nhiều điều phê bình bà ta nhưng dù sao nó đã chứng tỏ rằng Mao đã chia xẻ với bà những suy nghĩ thầm kín nhất. Khi những bản sao của lá thư vừa mới được phân phối cho đám thân cận của Giang Thanh thì Mao biết được và ra lịnh thu hồi tức khắc. Tôi sao lá thư để lưu trữ trước khi trả lại cho văn phòng chính phủ.

19. VỆ BINH ÐỎ TRONG CÁCH MẠNG VĂN HÓA
Khoảng đầu tháng 7, Mao ban chỉ thị cho tôi “Tình hình tại Bắc Kinh hiện nay rất sống động. Chúng ta không thể dựa vào tin tức mà thôi mà phải tận mắt thấy những đổi thay. Bác sĩ chuẩn bị lên đường trở lại Bắc Kinh vào ngày mai để điều tra tình hình.” Tình trạng tại Bắc Kinh, tuy nhiên, lại quá sức phức tạp. Cả Bộ Chính Trị lẫn Ban Bí Thư đều không đủ sức kiểm soát tình hình. Ngay cả các phụ tá thân cận của Mao cũng bị tấn công làm sao tôi có thể biết ai tốt ai xấu trong hoàn cảnh nầy. Vì vậy, trước khi đi, tôi hỏi Mao “Ai là người tôi có thể tiếp xúc khi trở lại Bắc Kinh ?” Mao dặn tôi tiếp xúc Ðào Trú, nhân vật Mao vừa cử vào chức vụ Cố Vấn cho Tiểu Ban Cách Mạng Văn Hóa. Tôi hơi do dự nhưng vì đây là chỉ thị trực tiếp của Mao nên tôi cũng thấy an toàn. Mấy ngày trước Mao có nói với tôi “Nhiều nghìn người sẽ chết lần nầy, mọi thứ đều đang đảo lộn. Tôi thích đại loạn mà.”
Trong thời gian tôi vừa trở lại Bắc Kinh thì ngày 16 tháng 1966 Mao tổ chức mừng chiến thắng bằng cách bơi trên sông Trường Giang. Vì cùng bơi với Mao nhiều lần tôi chẳng lưu tâm lắm đến việc nầy nhưng đối người ngoài thì đây là biến cố lạ lùng. Làm thế nào mà một ông già 73 tuổi có thể bơi nhanh hơn cả vô địch thế vận hội được nhỉ. Tôi biết rất rõ khúc sông ở Vũ Hán. Mao chỉ cần nằm đưa cái bụng phệ như chiếc bong bóng bự của y lên mặc cho nước đưa đi, thế thôi. Nhưng đây là một dấu hiệu cho thấy Mao đang chuẩn bị lâm chiến. Ðúng vậy, hai ngày sau, Mao ra lịnh cho đoàn tùy tùng trở về Bắc Kinh. Cuộc cách mạng văn hóa, vì thế, sẽ do chính tay Mao điều động.
Trở lại nhà hẳn nhiên là một niềm vui. Lần đầu sau hơn một năm tôi mới được ăn một bửa cơm tối với vợ và hai con. Nhưng sau khi hai đứa con đi ngủ, vợ tôi mới báo cho tôi một tin kinh hoàng: Ðiền Gia Anh, người bạn thân và cũng là một trong những bí thư của Mao trước đây đã tự tử. Ðiền Gia Anh và Giang Thanh chưa bao giờ hợp tính với nhau, cộng thêm tên cơ hội chủ nghĩa Trần Bá Ðạt, người đã từng có lập trường đối nghịch với Ðiền Gia Anh về chính sách Bước Tiến Nhảy Vọt. Mặc dù sau nầy nhiều bạn bè của tôi cũng tự tử nhưng Ðiền Gia Anh là người đầu tiên.
Chỉ vài ngày sau khi chiến dịch gọi là Cách Mạng Văn Hóa Vô Sản Vĩ Ðại chính thức ra đời, Uông Ðông Hưng gởi một nhóm nhân viên dưới quyền tới gặp Ðiền Gia Anh để tiếp thu tài liệu. Ðiền Gia Anh biết ngay rằng mình sắp sửa bị thanh trừng. Việc tiếp thu tài liệu từ tay một nhân viên cao cấp như vậy hẳn là quan trọng. Mệnh lệnh phải được phát ra từ, thấp nhất, phải là Thủ Tướng Chu Ân Lai hay từ chính Mao Trạch Ðông. Sau khi bàn giao tài liệu, đêm hôm đó Ðiền Gia Anh treo cổ tự tử.
Vợ tôi quá lo lắng cho tôi nhưng tôi hứa với bà là tôi sẽ không bao giờ tự sát mặc dù tôi biết tôi có thể bị tấn công. Vợ tôi có lý khi cho rằng sở dĩ Mao ra lịnh tôi trở lại Bắc Kinh trước là để thử nghiệm lòng trung thành của tôi. Tôi nói với Uông Ðông Hưng rằng Mao sai tôi về gặp Ðào Trú để đánh giá diễn tiến của Cách Mạng Văn Hóa. Uông Ðông Hưng đề nghị tôi cùng đi phi trường đón Ðào Trú. Khi gặp Ðào Trú và nghe tôi báo cáo, Ðào Trú trả lời là không có gì trở ngại cả. Y đề nghị tôi đi thăm một số cơ quan như Trường Ðại Học Y Khoa Bắc Kinh chẳng hạn.
Ðại học Y Khoa Bắc Kinh đang trong tình trạng hổn loạn. Cùng đi với tôi là Bộ Trưởng Bộ Y Tế Tiền Tính Trung. Sinh viên đang bãi khóa. Những khẩu hiệu lớn chống thầy cô giăng kín chung quanh trường. Tôi ngạc nhiên khi đọc một bích chương lớn chống cả đương kim Bộ Trưởng Bộ Y Tế Tiền Tính Trung trong lúc ông ta đang đến kiểm tra trường. Khẩu hiệu chống Tiền Tính Trung viết rằng ông ta là “tàn dư Quốc Dân Ðảng.” Họ Tiền đúng là gốc Quốc Dân Ðảng nhưng đã theo Cộng Sản từ những năm 1934 sau mặt trận An Huy. Nghĩ lại lý lịch của chính tôi mà không khỏi lạnh mình. Chẳng những tôi vào đảng quá trễ, sau khi Trung Quốc được giải phóng, mà cha tôi lại là một viên chức cao cấp của chính phủ Quốc Dân Ðảng.
Sinh viên tập trung trong giảng đường chờ Tiền Tính Trung đến. Sinh viên bắt đầu hỏi viên bộ trưởng Y tế tới tấp, nào là bộ y tế chỉ lo săn sóc cho các “quan” và bỏ quên sức khỏe của quần chúng. Tôi cảm thấy thật khốn khổ. Bản thân tôi rất thán phục và kính trọng Tiền Tính Trung. Tôi rời phiên họp trong kinh hoàng và tự hứa sẽ không bao giờ tham dự những cảnh như thế nầy nữa.
Số phân của Ðào Trú cũng chấm dứt một cách nhanh chóng. Y bị thanh trừng vào tháng Mười vì y quá độc lập với Giang Thanh và cũng vì y ủng hộ các lãnh tụ khác như bí thư Hồ Bắc Vương Nhậm Trong, người nằm trong danh sách bị thanh trừng.
Trở lại Bắc Kinh cũng có nghĩa là Mao đã chấm dứt thời kỳ nghĩ ngơi và chuẩn bị tái xuất hiện trước công chúng. Ngày 29 tháng Bảy năm 1966, Mao triệu tập một phiên họp ở Nhân Dân Ðại Sảnh. Tại nơi nầy cả chục ngàn sinh viên học sinh đến để nghe Mao chính thức giản tán các đội lao động. Lưu Thiếu Kỳ và Ðặng Tiểu Bình đến dự nhưng Mao lại không tham dự. Mao không muốn có liên hệ gì với hai nhân vật đó trong lúc nầy. Mãi gần đến khi khai mạc thì Mao mới đến nhưng lại ngồi khuất phía sau bức màn. Lưu Thiếu Kỳ và Ðặng Tiểu Bình lần lượt lên diễn đàn để chấp nhận những sai lầm về chính sách. Cả hai đều đổ lỗi cho việc thiếu kinh nghiệm mà ra. Lưu Thiếu Kỳ, cũng giống như Mao trong năm 1962, cho rằng đó là vấn đề “những nhà cách mạng cũ đương đầu với những vấn đề mới.” Mao nghe câu nói nầy liền bật miệng “Cái gì là cách mạng cũ, phản cách mạng thì có.”
Tôi lặng người đi sau khi nghe Mao nói. Thì ra mục tiêu tối hậu của cách mạng văn hóa là nhằm hạ bệ Lưu Thiếu Kỳ và Ðặng Tiểu Bình. Chu Ân Lai, đăng đàn sau hai họ Lưu và Ðặng, phát họa mục tiêu của Cách Mạng Văn Hóa. Mao đang sắp sửa trở về phòng 118 của ông ta nhưng bỗng dưng lại đổi ý và nói với tôi “Chúng ta phải ủng hộ quần chúng cách mạng.” Khi Chu Ân Lai nói vừa xong, bức màn sau lưng được kéo lên một phần và bất ngờ như ảo thuật chủ tịch Mao Trạch Ðông xuất hiện. Ðám đông mừng như điên lên, tiếng tung hô sấm sét “Mao Chủ Tịch Muôn Năm, Mao Chủ Tịch Muôn Năm” vang lên. Mao mỉm cười vẫy tay chào đám đông vừa đi tới đi lui trên sân khấu nhưng không nói một lời. Trong tiếng tung hô man dại của sinh viên học sinh Mao chầm chậm rời sân khấu, Chu Ân Lai lủi thủi theo sau như một con chó trung thành. Mao chẳng thèm nhìn mặt Chủ Tịch Nước Lưu Thiếu Kỳ hay Tổng Bí Thư Ðặng Tiểu Bình.
Ba ngày sau Mao viết một lá thư đến sinh viên học sinh, nói rằng “nỗi loạn là đúng”. Dòng chữ của Mao chẳng khác gì mệnh lệnh, được in lại và phân phối khắp Trung Quốc. Vệ Binh Ðỏ bắt đầu tràn ngập khắp trường học, từ trung học cấp một cho đến đại học trong cả nước. Mao cũng đích thân viết biểu ngữ “Tấn công các trụ sở”. Mao viện dẫn rằng nếu không làm như vậy thì trong khoảng 50 ngày, một số “đồng chí” có lập trường tư sản sẽ cố gắng phản công và tàn phá thành quả của Cách Mạng Văn Hóa. Với sự đồng ý của Mao, hồng vệ binh càn quét mọi cơ quan nhà nước.
Bất chấp mọi thủ tục đảng, ngày 10 tháng 8 năm 1966, Mao đón tiếp “quần chúng” tại cổng phía tây của Trung Nam Hải và sau đó đứng trên khán đài Thiên An Môn để chào mừng nhiều triệu hồng vệ binh. Cả thảy 8 lần trong mùa thu 1966, tôi đã đứng với Mao Trạch Ðông trên khán đài Thiên An Môn hay ngồi trong xe mui trần để duyệt hồng vệ binh. Lâm Bưu cũng có mặt trong những cơ hội nầy. Tham vọng chính trị đã làm y quên đi việc sợ nước, sợ gió. Y mỉm cười và vẫy tay chào đám đông. Tôi biết sự thù địch giữa Mao đối với hai họ Lư và Ðặng đang đến hồi kết cuộc, tuy nhiên đối với đại đa số nhân dân, mục tiêu của Cách Mạng Văn Hóa vẫn chưa rõ ràng. Mao chửi lén Lưu Thiếu Kỳ là phản cách mạng nhưng ngoài dư luận thì Mao chưa dứt khoát và vẫn còn giọng hòa hoãn. Trong hội nghị khoáng đại Ban Chấp Hành Trung Ương từ 1 đến 12 tháng Tám, Mao có vẻ muốn tha thứ cho những người khác quan điểm với ông ta. Nhưng thật ra, đó chỉ là những lời nói dối. Tất cả những ai chống lại Mao đều sẽ bị thanh trừng một cách thô bạo trong một thời gian ngắn tới đây.

.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét